lẽ? Nên chăng, cách hiểu này đúng đối với những câu TN như: Ăn cháo đá bát; Được cá quên chày; Đắc đạo vong sư, đắc ngư vong thuyền;…
2. Ăn cá bỏ vây
– Chỉ nên giữ lại những phần có ích, không nên tham lam quá [10, tr. 24].- Phê phán hạng người vô ơn bạc nghĩa [2, tr. 60]. – Khuyên nên thận trọng từ những việc nhỏ [46, tr. 12].Đối chiếu câu này với mơ hình và các câu ở trên chúng tôi thấy cách hiểu thứ nhất là đúng đắn hơn cả. Nhưng cũng cần nắm rõ từ “vây”. Theo từ điển tiếng Việt thì “vây” cónghĩa: 1. Bộ phận dùng để bơi của cá, có dạng lá. 2. Món ăn làm bằng sợi lấy ở vây một số loài cá biển [66, tr. 1069]. Như vậy, “vây” cá thì có lồi dùng được, có lồi khơng ai dùngnhưng thơng thường thì khi nói vây cá thì người ta cho là đồ bỏ đi. Do đó, cách hiểu thứ nhất là hợp lí. Cách hiểu thứ hai may ra đúng trong trường hợp “vây cá” dùng được nhưnglại không bao quát vấn đề, thiếu sức thuyết phục. Cách hiểu này đúng hồn tồn, có chăng, cũng giống như câu một với các câu TN như Ăn cháo đá bát; Được cá quên chày; Đắc đạovong sư, đắc ngư vong thuyền;… Cách hiểu thứ ba thì mang tính chất chung chung, nước đơi: có thể dùng vây cá hoặc không, tùy từng loại cá.
3. Ăn quả nhả bỏ hạt
– Nên giữ lại những phần có ích, khơng nên tham lam, keo kiệt quá [10, tr. 39]. -Người khôn khéo, xử thế khôn ngoan [2, tr. 86]. – Khuyên nên thận trọng từ những việc nhỏ [46, tr. 12].- Có của khơng nên ăn hết mà phải để dành chút ít về sau [19, tr. 100]. Cũng như hai câu trên, câu này là một kinh nghiệm khi ăn uống, cho nên cách hiểuthứ nhất là thỏa đáng: khi ăn quả thì nên ăn những phần có ích, có lợi, không nên tham lam, keo kiệt quá, ăn cả hạt thì sẽ bất lợi. Đây là lời khuyên về sự khôn khéo, ứng xử khônngoan,… Câu này nghĩa tương tự như câu “Ăn cơm lừa thóc”. Cách hiểu thứ hai cũng giống như cách hiểu thứ ba ở câu 2. Đây là lời khuyên nên thận trọng trong mọi việc dù là việcnhỏ như ăn cá, ăn quả. Cách hiểu này là chấp nhận được. Cách hiểu thứ ba có lẽ do bám sát vào một từ có vẻ nhẹ nhàng hơn từ “bỏ” là từ “nhả” chăng. Nhưng câu này cùng với hai câutrên là kinh nghiệm trong khi ăn uống chứ không phải kinh nghiệm “ sau ăn uống”, mà nếu có thì chỉ là nghĩa đến sau, nghĩa phụ.Trở lên là một vài mơ hình cấu trúc câu của TN mà chúng tôi nêu ra để đề xuất cách hiểu đối với một số câu TN. Chúng tơi đặt câu TN có nhiều cách hiểu bên cạnh hệ thốngnhững câu TN mà chúng có cùng cấu trúc, cách diễn đạt như nhau với quan niệm cái cá biệt, riêng lẻ phải nằm trong hệ thống, phải thuộc về hệ thống. Dù vậy, vẫn có những ngoại lệ.Có những câu cùng mơ hình cấu trúc, cùng cách diễn đạt vấn đề nhưng mối quan hệ giữa các vế lại khác nhau, dẫn đến nghĩa khác nhau. Thí dụ :A B- Ăn no, lo được. – Bút sa, gà chết. – Ăn vóc, học hay. – Khỏi lỗ, vỗ vế.- Bồi ở, lở đi. – Ngon mồm, ôm miệng. – Học hay, cày biết. – Quen mặt, đắt hàng.- Cả ăn, cả lo. – Cả vóc, cả kẹo.Tất cả các câu ở hai cột A và B về hình thức mà nói là cùng cấu trúc, cùng mơ hình, cách thể hiện vấn đề lại giống nhau, nhưng giữa các vế trong nội bộ câu, phương thức suynghĩa lại rất khác nhau. Ở cột A thì quan hệ giữa 2 vế là quan hệ đẳng lập, ngang hàng đã tìm hiểu ở trên. Còn ở cột B thì quan hệ giữa các vế trong câu là quan hệ chính phụ, kéotheo, phụ thuộc lẫn nhau. Thí dụ: “Học hay, cày biết” là Học thì hay, cày thì biết. Trong khi đó “Bút sa, gà chết” thì: Bút sa thì gà chết. Nếu xác định “Bút thì sa, gà thì chết thìvơ nghĩa.3.1.1.4. Mơ hình: Lành Nên làm A, vỡ khơng nên, thủng, rách… làm B. Thídụ: Lành làm thúng, vỡ làm mê; Nên làm cột mạ, không nên hạ cột con;… Ý nghĩa chung của các câu này nói về nguyên vật liệu được tận dụng: tốt lành thì làm ra thứ cao cấp; xấu,hỏng thì làm hàng thứ phẩm, khơng để uổng phí. Đối với con người cũng vậy: tùy theo năng lực, điều kiện của từng người mà sử dụng vào các cơng việc thích hợp, làm việc lớn khơngđược thì làm việc nhỏ, làm cơng việc cao sang khơng được thì làm những việc bình thường, đơn giản,… chứ khơng có chuyện khơng làm, khơng dùng. Có sức thì dùng vào việc nặng,người yếu thì dùng vào việc nhẹ, thơng minh thì cho chỉ huy, khơng thì sai vặt,… Chúng ta cũng có câu tương tự như các câu trên nhưng hiểu khác nhau: Lành làm gáo, vỡ làm mi,lơi thơi làm thìa: – Khơng có vật gì, người nào bỏ phí cả, tùy cơng dụng, khả năng mà dùng: gáo dừakhô được tra cán vào dùng để múc nước, nếu gáo bị vỡ làm đơi thì gọt đẽo thành cái muôi giá để xúc cơm, múc chè,… Nếu muôi bị vỡ nữa hoặc gáo bị vỡ thành nhiều mảnh nhỏ thìdùng làm muỗng cũng được [2, 10, 46, tr.782, 396, 172]. -Thái độ bất cần, muốn sao thì sao [10, tr. 396].Như vậy, chúng ta thấy rằng nghĩa thứ nhất hợp lí hơn. Thí dụ: “Tuy chị vẫn nghĩ vànói trước mặt chồng “Lành làm gáo, vỡ làm muôi” nhưng lúc này chị không kịp nghĩ đếncâu ấy” [Nguyễn Khải – Xung đột, tr. 57].Nghĩa thứ hai chỉ là nghĩa phụ, có chút tiêu cực vì khơng thể hiện thái độ coi trọng sự vật, sự việc, con người,…Tóm lại, mặc dù có những ngoại lệ, dị biệt như trên, nhưng chúng tôi cũng mạnh dạn đề xuất cách hiểu ở một số câu TN theo hệ thống mơ hình cấu trúc câu. Có thể có những bấtcập, nhưng trước mắt, qua khảo sát một số câu ở trên, chúng tơi thấy cách làm này là có sơ sở, chấp nhận được, ít nhất là đối với những câu đã khảo sát.
3.1.2. Hệ thống dị bản, đồng nghĩa, gần nghĩa
TN luôn luôn được lưu truyền trong không gian và thời gian, qua từng thời kì, giai đoạn, địa phương, từng cá nhân khác nhau. Quá trình lưu truyền như vậy, tất yếu dẫn đến sựbiến đổi của tác phẩm. Sự biến đổi có thể xảy ra hai khả năng sau: -Sự biến đổi vượt quá độ, quá giới hạn, nội dung thay đổi thì trở thành một tác phẩm khác. Thí dụ: Ăn muối còn hơn chuối chết Ăn muối còn hơn chuối chát, Ăn chung, mủngriêng Ăn chung, mùng riêng,… -Sự biến đổi chưa vượt quá độ, chưa quá giới hạn, nó vẫn là nó, vẫn nội dung đó nhưng có thêm sắc thái mới. Đây là hai bản khác nhau của cùng một tác phẩm, chúng là dịbản. Thí dụ: Đắm đò nhân thể giặt mẹt Đắm đò nhân thể rửa trơn, Đứa dại để trôn, người khôn xấu hổ Đứa dại cởi truồng, người khôn xấu mặt,…Chúng tôi dùng hệ thống dị bản, những câu đồng nghĩa, gần nghĩa để hỗ trợ việc lựa chọn cách hiểu. Bởi lẽ giữa các dị bản với câu đang xét có mối quan hệ gần gũi với nhau.Thứ nhất, chỉ mức độ, sắc thái nghĩa có thay đổi chút ít nhưng nói chung chúng có cùng sợi dây ngữ nghĩa. Thứ hai, các dị bản phần lớn đều có chức năng tường giải, làm rõ nghĩa chonhau. Thứ ba, chúng tơi chọn “nghĩa này” vì thực tế “số đơng” các dị bản đã có nghĩa như vậy. Sau đây là một vài câu TN:1. Bán gà ngày gió, bán chó ngày mưa. Cây này được các sách hiểu khác nhau như sau:- Một kinh nghiệm mua bán gà: hàng hóa gà , chó,… mà đem bán khơng đúng lúcngày gió, ngày mưa,… thì mất giá. Bởi vì vào ngày gió thì lơng gà xù lên, xơ xác, khơng mượt, mồng tái mét,… ngày mưa thì lơng chó bết vào, thân thể còm rọm, run lên, trơng kémmã [2, 10, 19, tr. 116, 52, 171]. -Người ta tin rằng gà hay toi về mùa có gió, còn khi trời mưa thì người ta thích ăn thịt chó. Bán thế có lợi [46, tr. 28].Với câu TN trên, chúng tơi tìm được một số dị bản sau: Bán gà kiêng ngày gió, bán chó kiêng ngày mưa [10, tr. 52], Chớ bán gà ngày gió, chớ bán chó ngày mưa [7, tr. 161].Qua hai dị bản trên, rõ ràng đây là một lời khuyên không nên bán gà vào ngày có gió mạnh, bán chó vào ngày mưa nhiều. Hai dị bản này đã góp phần làm rõ nghĩa hơn, chi tiếthơn, cụ thể hơn nghĩa của câu TN trên cũng tức là câu TN trên cô đọng hơn, hàm súc hơn hai dị bản. Và dĩ nhiên, cách hiểu thứ nhất đối với câu TN, theo chúng tôi là hợp lí, có cơsở. Còn cách hiểu thứ hai thì chưa thuyết phục, chưa bao quát vấn đề. Theo như lời giải thích của tác giả thì phải bán gà vào mùa có gió và bán chó khi trời mưa. Nhưng chúng tơikhơng tìm thấy câu TN hay dị bản nào nói về việc bán chó ngày mưa hay trời mưa thì người ta thích ăn thịt chó. Lại nữa, nếu trời mưa người ta thích ăn thịt chó thì đây cũng khơng phảilà hiện tượng phổ biến. Như vậy, cho “trời mưa thì người ta thích ăn thịt chó” là một sự suy diễn thiếu cơ sở đích đáng. Ngun nhân có lẽ do tính cơ đúc của câu TN so với hai dị bản.Ta còn có một dị bản nữa còn ngắn hơn các câu trên là: “Gà ngày gió, chó ngày mưa” [10, tr. 295]. Câu này, về hình thức thì khơng còn cho ta biết là “bán” hay “khơng bán” nữa. Nếuai có đầu óc nặng về suy diễn thì có thể hiểu khác nhau: có thể “bán” hay “khơng bán”, có thể: “ăn” hay “không ăn”, “nuôi” hay “không nuôi”,… Và như vậy thêm một lần nữa khẳngđịnh rằng, cấu trúc cô đọng, hàm súc của TN có thể dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, trong đó khơng loại trừ những cách hiểu áp đặt, tùy tiện,… Và cũng cho ta thấy rằng “quátrình hình thành dị bản của tục ngữ nhiều khi là quá trình diễn ra sự rút gọn các ngôn từ vốn đã cô đọng” [58, tr. 258].