Sơn La có khí hậu nhiệt đới gió mùa, biên độ nhiệt độ chênh lệch ngày, đêm lớn cộng với địa hình dốc, bị chia cắt sâu và mạnh nên hình thành nhiều tiểu vùng khí hậu, đất đai màu mỡ cho phép Sơn La phát triển đa dạng các loại cây ăn quả với số lượng lớn. Những năm gần đây, Sơn La khá thành công trong việc cải tạo vườn kém hiệu quả, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, nâng cao chất lượng sản phẩm, gắn với tìm kiếm thị trường để nông sản “xuất ngoại”.Từ “thủ phủ” trồng ngô, bấp bênh vụ đói, vụ no, bao trùm cuộc sống nghèo khó, giờ đây, Sơn La trở thành địa phương hình mẫu, có vùng trồng cây ăn quả lớn nhất miền Bắc và đứng thứ 2 cả nước.
I/ Thực trạng phát triển cây ăn quả.
1. Diện tích, sản lượng cây ăn quả:
Chủ trương về phát triển cây ăn quả trên đất dốc năm 2015 như cuộc cách mạng nông nghiệp ở Sơn La, làm thay đổi nhận thức của nhà quản lý và tư duy của người sản xuất, làm cho cây trái ngát xanh triền đồi núi với những mùa quả ngọt bội thu. Trong xu thế phát triển các cây ăn quả dần được quy hoạch và phát triển theo hướng hàng hóa, các vùng sản xuất tập trung phù hợp với khí hậu, thổ nhưỡng của vùng.
Bảng 1: Diện tích trồng trái cây ăn quả giai đoạn 2015 – 2020
Năm
2015
2016
2017
2018
2019
2020
Diện tích (ha)
23.602
26.660
44.870
58.824,2
72.000
78.850
Sản lượng (tấn)
101.300
115.953
139.288
220.304
401.257
336.330
Nguồn: Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La
Trong suốt giai đoạn 2016 đến 2020, diện tích đất trồng cây ăn quả và sản lượng trái cây của tỉnh liên tục đạt tốc độ tăng cao. Tốc độ tăng lần lượt của diện tích đất trồng qua các năm là: năm 2016 tăng 11,4%; năm 2017 tăng 68,3%; năm 2018 tăng 31%, năm 2019 tăng 22,5% năm 2020 tăng 9,5%. Đến năm 2020, tổng diện tích cây ăn quả trên 78.850 ha; sản lượng cây ăn quả 336.330 tấn, cả diện tích và sản lượng gấp hơn 3,3 lần năm 2015, bình quân cả giai đoạn 2016 – 2020 diện tích đất trồng tăng 28,6% do nhận thấy hiệu quả kinh tế, người dân đã chuyển đổi đất lâm nghiệp và đất trồng ngô trên đất dốc sang trồng cây ăn quả.
Riêng đối với sản lượng trái cây ăn quả năm 2020 thấp hơn so với năm 2019 vì đầu năm 2020 tại Sơn La đã xảy ra từ 2-3 đợt mưa đá, kèm dông lốc, gây thiệt hại (rụng quả) đáng kể cho một số diện tích cây ăn quả, tuy nhiên theo đánh giá chung, đây vẫn là năm được mùa của nhiều loại cây ăn quả chủ lực của tỉnh Sơn La như xoài, nhãn, các loại cây có múi, mơ, mận…
Bình quân mỗi huyện nằm trong vùng quy hoạch cây ăn quả tập trung sẽ có diện tích trên 10.000 ha. Các huyện nằm trong vùng quy hoạch phát triển cây ăn quả chủ lực bao gồm: Huyện Mộc Châu, Yên Châu, Mai Sơn, Sông Mã, Mường La, Thuận Châu, trong tương lai sẽ là các huyện còn nhiều tiềm năng để phát triển cây ăn quả như Huyện Sốp Cộp, Phù Yên, Bắc Yên…
2. Các loại cây ăn quả chủ lực của tỉnh:
Sơn La được biết đến là vùng cây ăn quả mới, với nhiều loại nông sản được trồng quy mô tập trung không chỉ phục vụ thị trường trong nước mà còn phục vụ chế biến, xuất khẩu. Năng suất chất lượng cây trồng tăng mạnh, cơ cấu cây trồng chuyển dịch theo hướng tích cực, nhờ vậy mà trên địa bàn tỉnh Sơn La, có rất nhiều loại trái cây ăn quả chủ lực nổi tiếng như : xoài tròn , chuối Yên Châu, nhãn Sông Mã, mận, bơ Mộc Châu, táo, sơn tra Sơn La, na Mai Sơn… các loại trái cây xoài, nhãn, mận và sơn tra chiếm tỷ trọng trên 90% tổng diện tích cây ăn quả. Hiện một số loại trái cây của tỉnh có diện tích, sản lượng lớn nhất trong khu vực Tây Bắc và khu vực Trung du và miền núi Bắc bộ như: Cây xoài diện tích 18.918 ha, sản lượng đạt 54.274 tấn; cây nhãn diện tích 18.702 ha, sản lượng đạt 89.379 tấn, cây mận mơ diện tích 11.507 ha sản lượng cả năm là 62.418 tấn, cây chuối diện tích 5.350 ha sản lượng cả năm đạt 45.813 tấn ,cây bơ diện tích 1.254 ha sản lượng cả năm đạt 5. 532 tấn, diện tích cây chanh leo 1.894 ha sản lượng cả năm đạt 18.003 tấn, cây sơn tra diện tích 12.642 ha sản lượng cả năm đạt 16.006 tấn.
Bảng 2: Diện tích các loại cây ăn quả chủ lực giai đoạn 2017 – 2020
Đơn vị: ha
Loại cây ăn quả
Năm 2017
Năm 2018
Năm 2019
Năm 2020
Xoài
7.796
11.580
12.090
Nhãn
11.590
14.659
15.090
18.702
Mận
6.702
8.383
9.542
11.507
Chuối
3.151
3.907
4.553
5.350
Bơ
529
1.022
1053
1.254
Chanh Leo
552
1.390
2.046
1.894
Sơn tra
8.986
11.365
11.470
12.642
Nguồn: Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La
Ngoài ra, Sơn La đã mạnh dạn đưa vào trồng thử nghiệm các giống cây trồng mới có năng suất, chất lượng cao, chống chịu sâu bệnh, phù hợp với điều kiện tự nhiên của địa phương như: chanh leo tím và bơ ghép, xoài ghép, nhãn ghép, na hoàng hậu ghép… Sơn La luôn đẩy mạnh đầu tư thâm canh, đưa các giống mới và áp dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất, hình thành các vùng nguyên liệu tập trung có diện tích hợp lý, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, tăng giá trị cạnh tranh trên thị trường. Hiện, toàn tỉnh cũng đã hỗ trợ ghép cải tạo vườn cây ăn quả cho gần 26.000 hộ gia đình với tổng diện tích trên 13.100 ha ghép cải tạo; nông dân đã áp dụng kỹ thuật rải vụ, có thể cho nhãn, xoài thu hoạch dịp Tết với giá bán gấp 6 lần chính vụ; làm cho na ra nhiều lứa quả trong năm, thời gian thu hoạch kéo dài đến Tết Nguyên đán.
Do vậy, trên địa bàn tỉnh đã xuất hiện nhiều mô hình sản xuất cây ăn quả cho giá trị kinh tế cao trên 01 ha như: Chanh leo tím và bơ ghép 600 triệu đồng/ha, Dâu tây hơn 400 triệu đồng/ha, xoài ghép hơn 500 triệu đồng/ha, na Hoàng hậu ghép đạt 01 tỷ đồng/ha… sản lượng trái cây ăn quả của tỉnh Sơn la cũng được gia tăng đều qua các năm. Cây ăn quả được sản xuất an toàn, được cấp giấy chứng nhận bảo hộ thương hiệu, hoặc mã vùng trồng, đảm bảo chất lượng quả đáp ứng nhu cầu những thị trường tiêu dùng khó tính.
3. Hiện trạng về sản xuất an toàn
– Nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng và xuất khẩu, hiện nay trên địa bàn tỉnh Sơn la đang duy trì và phát triển 158 chuỗi cung ứng an toàn sản phẩm cây trồng với diện tích 2.697ha sản lượng 36.987 tấn. Diện tích cây ăn quả được cấp chứng nhận sản phẩm phù hợp tiêu chuẩn nông nghiệp hữu cơ đạt 35 ha, sản lượng 455 tấn/năm, diện tích được cấp chuyển đổi sản xuất hữu cơ 155 ha.
– Sản xuất được cấp chứng nhận VietGap, GlobalGAP, hữu cơ và các tiêu chuẩn tương đương ngày càng nhiều. Các sản phẩm chuỗi giá trị an toàn, hữu cơ, VietGap, GlobalGAP sản xuất trên địa bàn tỉnh được tiêu thụ ổn định tại thị trường trong nước và xuất khẩu.
Về sản xuất được cấp mã vùng trồng: Hết năm 2020, toàn tỉnh đã được Cục Bảo vệ thực vật cấp 181 mã số vùng trồng 4.701,84 ha, tăng 62 mã số vùng trồng với diện tích tăng 1.067,25 ha so với năm 2019 và 37 cơ sở đóng gói phục vụ xuất khẩu. Trong đó: Tổng số mã vùng trồng cây ăn quả xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc: 130 mã (65 nhãn, 57 xoài, 06 chuối, 02 thanh long) với tổng diện tích 4.271,43 ha; mã số vùng trồng xuất khẩu sang thị trường Úc, Mỹ,… là 51 mã với tổng diện tích 430,41 ha đảm bảo theo yêu cầu của các nước nhập khẩu. Nhờ những hướng đi đúng đắn, hiện Sơn La đã có 21 sản phẩm mang địa danh của tỉnh Sơn La được Cục Sở hữu trí tuệ cấp văn bằng bảo hộ, tăng 3 sản phẩm so với năm 2019 gồm: Chỉ dẫn địa lý: 3 sản phẩm; Nhãn hiệu chứng nhận: 15 sản phẩm; Nhãn hiệu tập thể: 3 sản phẩm. Nhằm chuẩn hóa sản phẩm theo quy hoạch phát triển, từ năm 2017, các nhà vườn trên địa bàn tỉnh đã bắt đầu gắn tem nhãn điện tử thông minh nhận diện và truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Việc bảo đảm an toàn thực phẩm, phải đáp ứng tất cả các tiêu chuẩn kỹ thuật của các nước nhập khẩu khi các Hiệp định thương mại tự do có hiệu lực, đã là hoạt động thường xuyên liên tục của các vùng trồng cây ăn quả ở Sơn La.
Năm 2020, mặc dù ảnh hưởng dịch COVID-19, nhưng toàn tỉnh vẫn xuất khẩu hơn 21.000 tấn (gồm: Nhãn: 7.475,2 tấn; Xoài: 7.816,2 tấn; Chanh leo: 2.000 tấn; Chuối: 3.500 tấn; Mận 264 tấn; Thanh Long: 22 tấn… ) quả các loại sang 14 thị trường: Trung Quốc, Úc, Hàn Quốc, Nhật Bản, EU, Mỹ, Đài Loan, UAE… chiếm hơn 20% trong số 108.483,4 tấn tổng sản lượng xuất khẩu nông sản của tỉnh, giúp nông dân 3 được “được mùa, được giá, được thu nhập”. Trong tổng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp Sơn La đạt gần 7.600 tỷ đồng, riêng giá trị sản xuất của mặt hàng trái cây đạt 3.040 tỷ bằng 40% tổng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp Sơn La. Cùng với vươn ra thị trường thế giới, tại thị trường trong nước, các loại quả của tỉnh Sơn La đã được phân phối tại tỉnh nhà và nhiều trung tâm thương mại, các siêu thị trong nước như: Vinmart, Big C, Lotte, Hapro với số lượng lớn.
Trong 5 năm, cơ cấu mặt hàng các sản phẩm trái cây tỉnh Sơn La đang có sự đổi thay từng ngày. Đặc biệt, nhờ tích cực mời gọi, thu hút đầu tư, đến nay Sơn La đã có nhiều tập đoàn kinh tế lớn vào đầu tư làm ăn. Hiện đã có 8 dự án nhà máy chế biến công suất lớn được khởi công và đi vào hoạt động, như: Nhà máy chế biến chanh leo, rau, củ, quả xuất khẩu của Tập đoàn Nafoods (Mộc Châu); Nhà máy bảo quản và chế biến sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao của Tập đoàn IC Food Hàn Quốc; Nhà máy chế biến hoa quả tươi và thảo dược Vân Hồ của Tập đoàn TH (Vân Hồ)…, góp phần thúc đẩy chuyển dịch ngành trồng trọt theo hướng sản xuất hàng hóa, hình thành vùng nguyên liệu tập trung gắn với các nhà máy chế biến nông sản. Ngoài ra trên địa bàn tỉnh có gần 500 cơ sở sơ chế, chế biến quả (chủ yếu là quả nhãn, mận, xoài) quy mô nhỏ của các hộ gia đình, cá nhân, hợp tác xã, doanh nghiệp; đến nay đã được công nhận 37 cơ sở đóng gói quả phục vụ xuất khẩu. 614 hợp tác xã nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, trong đó có 301 hợp tác xã trồng cây ăn quả, 43 hợp tác sản xuất rau; 3 hợp tác xã sản xuất cà phê, 3 hợp tác xã sản xuất chè ,…
4. Đánh giá chung
* Những kết quả đạt được:
Chủ trương phát triển cây ăn quả của tỉnh Sơn La trong những năm qua, như một mũi tên trúng 3 đích. Ngoài hiệu quả kinh tế, còn mang hiệu quả xã hội tích cực: Giải quyết việc làm, thu nhập cho người nông dân thông qua việc thu hút các nhà máy chế biến quả; phát triển hợp tác xã sản xuất, chế biến quả đã góp phần thực hiện thắng lợi tiêu chí 13 về tổ chức sản xuất của Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, giải quyết việc làm cho gần 5.000 lao động. Hiệu quả môi trường cũng thấy rõ, việc phát triển cây ăn quả thân gỗ như xoài, nhãn, mận, na… trên đất trồng cây hàng năm đã góp phần bảo vệ môi trường, tạo ra tính đa dạng sinh học; việc áp dụng nông nghiệp sạch, ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ trong sản xuất, bảo quản, chế biến đã hạn chế được việc sử dụng quá liều lượng thuốc bảo vệ thực vật, phân bón, góp phần bảo vệ được môi trường nước, không khí, tránh được xói mòn, rửa trôi, bạc màu đất. những vạt nương đã xanh lại bằng lá chắn cây ăn quả tạo ra tính đa dạng sinh học. Thông qua chương trình phát triển cây ăn quả, 5 năm qua, Sơn La đã hỗ trợ được hàng chục nghìn lượt hộ ở vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn về phát triển kinh tế. Trong đó, địa phương đã thực hiện hỗ trợ ghép cải tạo vườn cây ăn quả theo quy định tại Nghị quyết số 28/2017/NQ-HĐND cho 6.470 hộ; hỗ trợ trồng cây ăn quả theo quy định tại Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững cho gần 10.000 hộ,…
* Những tồn tại hạn chế và nguyên nhân :
Diện tích đất trồng trọt chủ yếu trên đất dốc, vùng nguyên liệu phục vụ cho chế biến, xuất khẩu còn nhỏ lẻ, phân tán, chất lượng nông sản chưa đồng đều, số lượng diện tích được cấp mã vùng trồng, sản xuất đảm bảo tiêu chuẩn an toàn VietGap, GlobalGap còn thấp so với tổng diện tích, khâu thu hoạch, bảo quản, sơ chế, nhãn mác, phục vụ tiêu thụ xuất khẩu tuy đã được cải thiện nhưng vẫn còn hạn chế, chi phí vận chuyển cao. Cơ sở hạ tầng và dịch vụ kĩ thuật thiết yếu phục vụ cho sản xuất trồng trọt còn nhiều bất cập nhiều nơi còn thiếu hệ thống thuỷ lợi, canh tác nhờ nước trời, thiếu kho lạnh bảo quản. Năng suất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, sản xuất nông nghiệp theo hướng hữu cơ, ứng dụng cơ giới hóa vào sản xuất bước đầu đã đạt được kết quả nhất định. Tuy nhiên diện tích chưa nhiều các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ gia đình mở rộng diện tích còn chậm. Phương thức sản xuất, cơ cấu cây trồng tuy có chuyển dịch theo hướng tích cực nhưng chưa mạnh, tăng trưởng vẫn dựa vào mở rộng diện tích gieo trồng và sử dụng tài nguyên là chính, chất lượng sản phẩm chưa cao giá trị gia tăng và năng suất lao động còn thấp.
– Nguyên nhân khách quan: Diện tích đất trồng trọt chủ yếu trên đất dốc, vùng nguyên liệu phục vụ cho chế biến, xuất khẩu còn nhỏ lẻ phân tán, biến đổi khí hậu, thiên tai và dịch bệnh diễn biến phức tạp, tần suất thiên tai ngày càng nhiều, mức độ nghiêm trọng và nguy cơ ngày càng lớn ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp. Sản xuất trồng trọt của tỉnh có xuất phát điểm thấp, vẫn mang nặng tính chất của một nền sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, công nghệ, hạ tầng kĩ thuật chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra đối với sản xuất nông nghiệp. Một số vật tư thiết yếu phục vụ sản xuất phải nhập khẩu trong khi giá cả luôn biến động, thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu chưa ổn định đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc thâm canh và thu nhập của nông dân.
– Nguyên nhân chủ quan: Phần lớn người sản xuất còn sản xuất tự phát, chuyển đổi cơ cấu sản xuất một số nơi tự phát, sản xuất theo phòng trào, chạy theo thị trường trôi nổi. Mối liên kết giữa 4 nhà còn rất hạn chế, sản xuất thiếu kế hoạch dẫn đến trong cùng một thời điểm có những loại sản phẩm bị dư thừa còn một số loại khác thì rất khan hiếm, kênh cung cấp thông tin và giá cả nhu cầu thị trường nông sản cho người sản xuất chưa được thiết lập chuyên sâu. Công tác nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học kĩ thuật mặc dù đã được đầu tư chuyên sâu nhưng vẫn chưa theo kịp yêu cầu thực tế sản xuất. Một số mô hình đạt hiệu quả nhưng việc mở rộng còn chậm. Nguồn lực của Nhà nước và nhân dân đầu tư cho trồng trọt thấp, nhiều vướng mắc, bất cập trong cơ chế chính sách chậm được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình mới, thiếu nguồn lực tài chính.
II. Giải pháp phát triển cây ăn quả
Để khắc phục những hạn chế và tồn tại nêu trên, trong giai đoạn 2021-2025, Sơn La tiếp tục đẩy mạnh phát triển cây ăn quả thành ngành công nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, có khả năng cạnh tranh quốc tế cao, gắn với cơ cấu lại ngành nông nghiệp, hiện đại hóa ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, tích cực ứng dụng khoa học kỹ thuật tiến bộ thông qua các doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hợp tác xã, nhân rộng các mô hình trồng cây ăn quả mang lại hiệu quả kinh tế cao, đem lại thu nhập ổn định cho người dân; phấn đấu đến năm 2025 có 105.000 ha cây ăn quả, sản lượng đạt 600.000 tấn. Để hiện thực hóa mục tiêu này, trong thời gian tới, Sơn La cần triển khai đồng bộ một số giải pháp trọng tâm sau.
– Tập trung phân loại, xác định diện tích cây trồng có lợi thế theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, phát triển cây trồng hàng hóa, quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao; vùng sản xuất đảm bảo tiêu chuẩn phục vụ tiêu thụ, gắn với nhà máy chế biến nông sản phục vụ nhu cầu xuất khẩu. Thực hiện tốt việc chuyển đổi đất trồng cây kém hiệu quả, đất có độ dốc quá lớn sang đất trồng các loại cây khác hiệu quả hơn.
– Đẩy mạnh nghiên cứu, khảo nghiệm, thử nghiệm đưa vào sản xuất, kinh doanh các giống cây trồng mới có năng suất cao, chất lượng tốt, có khả năng chống chịu sâu bệnh; thích ứng biến đổi khí hậu và đáp ứng với yêu cầu đa dạng hóa thị trường; Ưu tiên nghiên cứu và chuyển giao công nghệ cao, công nghệ tiên tiến trong hoạt động chế biến và bảo quản nông sản.
– Triển khai áp dụng thực hành nông nghiệp tốt VietGAP, GlobalGAP và phát triển sản xuất nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ và các tiêu chuẩn được cấp chứng nhận phục vụ xuất khẩu nông sản; thực hiện tốt các biện pháp phát triển bền vững trong sản xuất nông nghiệp.
– Xây dựng và áp dụng quy trình kỹ thuật đồng bộ phù hợp với từng đối tượng cây trồng để nâng cao chất lượng, giảm chi phí đầu vào, an toàn thực phẩm; bảo vệ và nâng cao độ phì nhiêu đất; công nghệ bảo quản, chế biến nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, gia tăng giá trị.
– Tăng cường công tác đào tạo, tập huấn cho cán bộ, công chức, viên chức trong việc tiếp thu những tiến bộ khoa học mới trong phát triển vùng sản xuất ứng dụng công nghệ cao, công nghệ thông minh; Xây dựng lực lượng cán bộ kỹ thuật để hướng dẫn nông dân sản xuất theo đúng quy trình, các tiêu chuẩn được cấp chứng nhận sản xuất an toàn, bền vững.
– Đẩy mạnh thu hút các doanh nghiệp đầu tư tham gia chế biến tinh, chế biến sâu, chế biến phụ phẩm áp dụng công nghệ cao đối với các ngành hàng có lợi thế, chú trọng từng bước hình thành các tổ hợp nông, công nghiệp, dịch vụ công nghệ cao, gắn kết chặt chẽ với nông dân theo mô hình sản xuất nông nghiệp đa chức năng và phát triển bền vững.
– Phát triển công nghiệp chế biến nông sản gắn với phát triển các vùng sản xuất nguyên liệu tập trung. Đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ cao thân thiện với môi trường vào bảo quản, chế biến nông sản. Đa dạng hóa sản phẩm chế biến, tăng tỷ trọng chế biến sâu, chế biến tinh, đáp ứng yêu cầu của thị trường tiêu thụ, bảo vệ môi trường.
– Thu hút các cơ sở chế biến nông sản tập trung quy mô công nghiệp đảm bảo tiêu thụ nguyên liệu nông sản để chế biến và xử lý chất thải bảo vệ môi trường sinh thái.
– Nghiên cứu, rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các quy định, chính sách như các chính sách liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng vùng sản xuất hàng hóa ứng dụng công nghệ cao tập trung; hỗ trợ phát triển vùng trồng áp dụng quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp hữu cơ; tái canh; phát triển bền vững, xuất khẩu nông sản.
– Tăng cường và đổi mới các hoạt động quảng bá, giới thiệu sản phẩm nông sản; mở rộng thị trường tiêu thụ các sản phẩm nông sản, nhất là các sản phẩm chế biến nông sản đóng gói tại tỉnh Sơn La thông qua các hội chợ, hội nghị, diễn đàn thương mại xúc tiến đầu tư; hỗ trợ xây dựng chỉ dẫn địa lý, thương hiệu cho các mặt hàng nông sản của tỉnh.
– Tổ chức đàm phán với các nước để mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tìm hiểu thị trường, ký kết hợp đồng tiêu thụ nông sản, rau, quả của Sơn La xuất khẩu sang thị trường các nước.
– Đẩy mạnh việc nắm bắt thông tin liên quan đến hiệp định EVFTA, CPTTP, tham gia các FTA, nhiều hiệp định song phương và đa phương khác để đáp ứng yêu cầu đòi hỏi khắt khe liên quan quy tắc xuất xứ, quy định liên quan vệ sinh, môi trường, lao động và quy trình công nghệ xuất khẩu nông sản./.
Đinh Thị Bích Liên
Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến Thương mại – VIOIT