Điều làm tôi ngạc nhiên nhất ở Hà Lan đó là nước sạch, không mùi clo, có thể uống từ vòi mà không cần đun sôi và chất lượng không kém gì nước khoáng đóng chai không có ga. Tuy vậy, một số người Việt Nam vẫn thường đun nước sôi để nguội rồi mới uống vì thói quen mang theo nên khó thay đổi.
Nước sạch quan trọng như thế nào?
Nước sạch là nước bảo đảm an toàn cho sức khỏe, trong suốt, không mầu, không vị, không chứa vi khuẩn hay virus gây bệnh, ký sinh trùng gây bệnh, không có các chất độc hại cho người ăn uống, tắm rửa, giặt giũ.
Khi nguồn nước bị ô nhiễm thì các virus và vi khuẩn sẽ gây bệnh cho người dùng, hay giun sán sẽ chui vào ruột, mật, não, mắt… gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe nếu ăn rau sống rửa bằng nước đó hay các hóa chất sẽ gây ung thư mặc dù nước đã được nấu sôi. Theo Tổ thức Y tế thế giới (WHO) có đến 75% người Việt Nam mắc bệnh giun sán, trong số đó trẻ em chiếm tỷ lệ từ 70 – 90%. Một số các hóa chất thường gặp trong nước là sắt, măng gan, chì, asen, thủy ngân, nitrat, nitrit, amoni, hóa chất bảo vệ thực vật, các sản phẩm dầu, mỡ và các hóa chất dùng trong công nghiệp… Trong trường hợp hàm lượng vượt quá tiêu chuẩn cho phép sẽ gây hại đối với sức khỏe, nước chứa kim loại nặng (asen, chì, thủy ngân, hóa chất bảo vệ thực vật) gây ngộ độc và sử dụng trong thời gian dài sẽ có khả năng tích tụ trong các mô cơ thể, có thể gây nên các bệnh ung thư hoặc nhiễm độc mạn tính.
Việc sử dụng nước bị nhiễm bẩn cũng là nguyên nhân gây nên các bệnh đường tiêu hóa như tiêu chảy, thương hàn, tả, lỵ. Nhiều người dùng chung một nguồn nước bị nhiễm vi khuẩn gây bệnh như E. Coli, Salmonella có thể gây bùng phát các dịch như bệnh tiêu chảy, dịch tả trong cộng đồng.
Bảo vệ nguồn nước
Nguồn nước uống lớn nhất ở Hà Lan là nước ngầm (hơn 60%). Ở phía tây của Hà Lan, nước ngầm chứa quá nhiều muối, đó là lý do tại sao nước mặt (từ sông Rhine, Maas và IJsselmeer) được sử dụng ở đây. Gần các khu vực cồn cát ở bắc và nam Hà Lan, nước uống được sản xuất bằng cách thấm nước bề mặt vào cồn cát, làm sạch nước trước. Ngoài ra còn có một dạng trung gian: nước lọc ở bờ sông, nước bề mặt đã được hấp thụ vào lòng đất qua bờ sông.
Nước từ lòng đất thường đã có từ rất lâu, đôi khi là vài thế kỷ. Nước mưa phải mất một thời gian dài mới đến được vị trí đó và phần lớn đã được làm sạch bởi các lớp đất sét và cát. Hơn nữa, nó không còn chứa oxy nên không có vi khuẩn và virus trong đó. Do đó, khá dễ dàng để biến nó thành nước uống sạch, chất lượng cao.
Đối với nước mặt, quá trình này có phần phức tạp hơn, thường có hồ chứa nước thô mà nguồn từ nước mưa hay từ những con sông mưa, nơi chất lượng nước thường tốt hơn khi lưu lượng nước cao vì nồng độ các chất có khả năng gây hại thấp hơn. Nước bề mặt trải qua một chu kỳ mở rộng gồm các bước thanh lọc, bắt đầu ở các hồ chứa, nơi các hạt lớn hơn chìm xuống đáy và chẳng hạn như thực vật thủy sinh và động vật thủy sinh đã cung cấp khả năng lọc nước tự nhiên. Trong lọc nước uống, nước đi qua các bộ lọc khác nhau, có thể loại bỏ các hạt ngày càng nhỏ hơn ra khỏi nước. Cuối cùng, tất cả vi khuẩn và virus đều trở nên vô hại nhờ ánh sáng tia cực tím đặc biệt và than hoạt tính sẽ loại bỏ mùi, mầu và hương vị.
Những hồ chứa nước này thường có rừng cây bao bọc chung quanh như một khu bảo tồn thiên nhiên, không có khu dân cư hay nhà máy công nghiệp nào cả. Những khu vực có nước ngầm đều có bảng lưu ý như một tài nguyên vô giá cần được bảo vệ. Thường có một vành đai bảo vệ chung quanh một khu vực khai thác nước ngầm. Nước mưa rơi xuống đây ngấm vào đất và vài năm sau mới chảy xuống suối. Nếu có chất gây ô nhiễm trong lòng đất, chúng sẽ chảy theo. Đó là lý do tại sao các quy tắc được áp dụng để giữ sạch nước ngầm rất nghiêm ngặt. Thí dụ, người dân được phép khoan và đào, miễn là không quá sâu. Nhưng không thể sử dụng tất cả các nguồn nước cho nông nghiệp hoặc làm vườn. Và du khách không được phép đậu xe ở mọi nơi. Một số vùng như Drentel, nông dân làm ruộng dùng nhiều chất phân đạm gây ra nồng độ nitrat lớn ở trong nước rồi ngấm vào nước ngầm và chính quyền địa phương đã phải có những biện pháp kịp thời để khắc phục.