Đi qua mùa đông sang mùa hạ
Nó đặc biệt và khác với các loại rau muống của các vùng quê khác ngay từ cách trồng, hái. Để có được thứ rau đặc biệt ấy, người ta phải tuyển chọn dây rau già to khỏe làm sơ giống. Những ngày đông sương muối, lạnh buốt giá, rau bắt đầu lụi đi, người ta mang những sơ rau đã chọn, ủ thành đống và che đậy cẩn thận. Khi đống rau giống đã trút hết những lá vàng trở thành một đống dây màu nâu thẫm cằn cỗi, ấy cũng là lúc những ngày buốt rét, lạnh giá nhất đã qua. Người ta chuyển những dây rau cằn cỗi ấy xuống thuyền rồi rải đều nó trên mặt nước ở sông, đầm ao, hồ rồi dùng những cây tre nứa cắm sâu xuống và buộc chặt vào những cây thả nổi, chia mặt nước thành những ô vuông để định vị cho sơ rau không trôi dạt, không co cụm mà trải đều trên mặt nước. Chừng chục ngày sau, từ những dây sơ cằn cỗi ấy các mầm rau bắt đầu nảy chồi. Tháng tư – đầu hạ, khi mưa rào đầu mùa bắt đầu lộp độp rơi, như một phép màu, những bè rau đua nhau nảy mầm xanh. Và khi hoa phượng le lói đỏ trong tán lá thì những bè rau muống đã trổ lên xanh biếc.
Ngày trước, cả vùng Định Công, Thanh Trì, Khương Thượng, Láng, Hào Nam…và cả con sông Tô Lịch khi còn xanh trong, chưa thành cống nước thải như bây giờ cũng mướt mải một màu xanh của rau muống. Vào những đêm mưa đầu mùa dai dẳng, khi trời bắt đầu tang tảng, những người hái rau muống bắt đầu đẩy chiếc thuyền nan nhỏ xuống nước. Chiếc thuyền nan nhỏ xíu, họ ngồi lệch về một đầu, còn đầu kia để xếp rau. Họ bám vào bè rau muống, thoăn thoắt hái bằng cả hai tay. Những ngọn rau muống xanh non, giòn sật. Những mớ rau muống cứ chất đầy dần, con thuyền nhỏ lệch hẳn về một phía.
Lứa rau đầu tiên được gọi là rau sơ mới. Đây là loại rau ngon nhất, ngọn rau mỏng, non búng, mỡ màng, thân mềm, khi ngắt phát ra tiếng kêu tanh tách. Thường sau khi hái lứa sơ mới khoảng chừng 5 – 6 ngày là đến lứa sơ hai. Rau sơ hai ngọn nhỏ hơn và cũng đã kém mỡ màng hơn so với rau sơ mới, nhưng xào ăn lại rất ngon. Người làm rau muống bè tuy chẳng phải lo việc bón phân, tưới nước cho rau nhưng lại vất vả ở khâu ủ và rải sơ. Rau sơ không giống như rau ruộng, có thể trồng một lần rồi hái được nhiều lứa hoặc cả vụ. Sơ rau khi hái hết lứa thứ hai, cùng lắm đến lứa thứ ba là phải bỏ đi để thay lứa sơ khác. Rau muống bè bao giờ cũng đắt hàng, đứng đầu trong sự lựa chọn của những người nội chợ đảm đang và giá của nó thường đắt gấp 2 – 3 lần rau muống trồng ở ruộng hay trên cạn.
Dân dã nhưng thể hiện sự tinh tế
Rau muống dù chỉ là món ăn dân dã, bình dị nhưng trong cách nấu nướng cũng đã thể hiện được hết cái tài khéo, tinh tế của người Hà Nội. Từ cách rửa rau đến cách chế biến thành nhiều món ăn khác nhau đều thể hiện những nét riêng và sự tinh tế ấy. Rau muống bè vì ngọn rau rất ngon, rất mềm nên khi rửa không được quấy mạnh làm nát hết rau, chỉ cho chừng vài ngọn rau một, khỏa qua, khỏa lại, như thế rau mới sạch bèo mà không bị nát. Cái đặc biệt của rau muống bè là rất mau chín, khi rau sôi chỉ lật qua lật lại là tới độ chín, quá lửa rau sẽ nồng, ăn mất ngon. Xoong, nồi để luộc rau, thậm chí cả đôi đũa để trở rau cũng phải sạch sẽ và tuyệt đối không được dính mỡ. Lửa phải để to, khi nước sôi, bỏ một chút muối rồi mới thả rau vào luộc, có như thế rau mới xanh, nước luộc rau mới trong vắt một màu vàng nhạt, trông thật mát mắt. Rau vớt ra được tãi đều ra rổ rồi mới xếp gọn vào đĩa, như vậy khi ăn rau mới không bị soắn xuýt, rối bời.
Rau muống luộc có thể chấm với tương Bần nhưng người Hà Nội ưa chấm rau muống với nước mắm ngon pha tỏi ớt và vắt thêm chanh. Vào những ngày hè, mâm cơm dọn lên có đĩa rau muống luộc xanh mướt, bát nước mắm vàng au, nổi màu trắng nõn của tép tỏi, màu đỏ tươi của lát ớt, thơm mát mùi chanh cùng bát nước rau trong vắt dầm vài quả sấu non chua dịu, ánh lên một màu vàng nhạt đã thấy dịu đi cái oi nồng, nóng nực. Thêm vào đó, một bát cà pháo muối trắng phau, đĩa tép rang đỏ au, đã nghe vị giác trào lên sự thèm muốn.
Luộc là cách ăn chủ yếu, nhưng rau muống còn được chế biến thành nhiều món khác nữa như: Xào với tỏi, làm nộm chua ngọt rắc chút vừng lạc, thêm ít lá kinh giới là đã được một món ăn rất dễ chịu cho mùa hè, cũng có thể nấu canh cua khoai sọ, thêm chút rau rút cho dậy mùi hoặc chẻ nhỏ ăn sống cùng bún riêu cua, riêu ốc… Đó đều là món ăn rất được người Hà Nội ưa chuộng.
Những bè rau muống xanh đan kín lòng sông, mặt hồ, chắt chiu nhuần nhị cho hương vị đậm đà hơn, những bữa ăn ngon miệng hơn. Và rau muống bè cũng đã trở thành một thứ đặc sản đọng trong nỗi nhớ của những người từng đến, từng sống ở Hà Nội. Để rồi, có lúc nào đó, khi xa lại khắc khoải nhớ về: “Anh đi anh nhớ quê nhà/ Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương”.
Nguyễn Minh Đức (LangVietOnline)