Cây muồng trâu hay gặp ở nhiều nơi trên nước ta, đặc biệt là các tỉnh miền trung như Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Muồng trâu là loại cây thân gỗ mềm, có thể cao từ 1,5 – 3m.
Theo Y Học Cổ Truyền, cây muồng trâu có vị đắng, tính mát, mùi hắc nhẹ, lá vị cay ấm. Phần thân, quả, lá, cành của cây muồng trâu đều được sử dụng để bào chế thành thuốc.
Theo nghiên cứu hiện đại, trong hạt muồng trâu có chứa tới 15% protein, Mg, Mn, Ca, Na. Phần lá và quả muồng trâu có các dẫn xuất anthraquinon và phần rễ cây chứa sitosterol (là dẫn xuất của steroid thường xuất hiện trong các sản phẩm điều trị bệnh ngoài da).
Quả muồng trâu được thu hái vào tháng 10 – 12 hằng năm, có thể dùng tươi hoặc phơi khô. Thân, cành và lá cây muồng trâu thường được thu hái khi chưa ra hoa, có thể dùng tươi hoặc phơi nắng cho khô.
Theo Y Học Cổ Truyền, công dụng của cây muồng là sát trùng, nhuận tràng, lợi tiểu, giải nhiệt và giảm ngứa. Khi sao vàng, cây muồng trâu có tác dụng tiêu viêm, tiêu độc, nhuận gan và tiêu thực. Cây muồng trâu được sử dụng trong điều trị chàm, hắc lào, vàng da, viêm da thần kinh, dị ứng, viêm gan, táo bón, đờm nhiều, phù thũng.
Theo nghiên cứu dược lý hiện đại, cây muồng trâu có công dụng:
- Cao lá muồng đang được nghiên cứu để làm thuốc điều trị viêm gan cấp và mãn tính do nó có khả năng điều hòa chỉ số bilirubin, ALT và bảo vệ tế bào gan.
- Lá muồng trâu có tác dụng kháng khuẩn và nấm.
- Thực nghiệm trên chuột cống trắng bị xơ gan cho thấy cao lá muồng trâu có thể ức chế quá trình xơ.
- Hợp chất anthraquinone trong cây muồng trâu có tác dụng trong điều trị các bệnh da liễu như vẩy nến, hắc lào, lang ben, dị ứng, mẩn ngứa,…
- Tác dụng nhuận tràng của cây muồng trâu được xác định là do hoạt động của hợp chất Sennoasides. Ở đại tràng, vi khuẩn đường ruột sẽ thủy phân hợp chất này thành Anthornes tác động đến nhu động ruột nhằm hạn chế táo bón và khó tiêu.