Ho là phản ứng có lợi của cơ thể nhằm đẩy những dị vật tại đường hô hấp ra ngoài khỏi cơ thể. Ho có thể là triệu chứng của bệnh cơ quan khác không thuộc đường hô hấp, hoặc là bệnh của các cơ quan khác nhưng có ảnh hưởng đến chức năng của hệ hô hấp gây ho.
Ho có đờm trong Đông y được gọi là khái thấu. Khái thấu có 2 nguyên nhân lớn là do ngoại cảm và nội thương. Muốn điều trị được khái thấu trước tiên phải xác định được nguyên nhân: nội thương là do tạng phủ (cơ quan nội tạng) hoạt động không điều độ, mất bình thường gây nên. Còn ngoại cảm được hiểu là do cảm nhiễm ngoài tác động gây nên
Theo quan niệm Đông y, bệnh ho thường là hệ quả của việc khi cơ thể bị nhiễm phong hàn, nhiễm lạnh hoặc phong nhiệt tạo ra thể đàm, đảm nhiệt, bị tích tụ độc tố trong cơ thể, và gây mất cân bằng âm dương. Để điều trị khỏi bệnh, chính khí cần điều dưỡng cho mạnh, cải thiện phế, bồi bổ cơ thể. Đồng thời, cần tăng cường sức đề kháng cho hệ miễn dịch để bệnh được loại bỏ triệt để.
1.1. Khái thấu nguyên nhân do ngoại cảm
Thế khái thấu phong hàn
- Người bệnh thường ho, chảy nước mũi, ngạt mũi, hắt hơi, đờm lỏng, sợ lạnh, không có mồ hôi, đau xương, đau đầu, đau mình, rêu lưỡng có màu trắng, mạch phù. Nguyên nhân là do phong hàn phạm vào phế kinh, gây trở ngại cho khí quản, khiến cho phế khí không được lưu thông dẫn đến phản xạ ho, chảy nước mũi, ngạt mũi, do hàn bế tắc bên ngoài nên sợ lạnh, đau mình, đau đầu đau xương, nhưng lại không có mồ hôi.
- Phép chữa: Tán hàn, sơ phong, hóa đờm, thống phế khí.
- Thuốc dùng: Bài Hạnh tô tán có gia giảm. Trong bài dùng tía tô, gừng để sơ phong tán hàn; hạnh nhân, tiền hồ, cát cánh để hóa đờm, thông phế, trị ho; gia ma hoàng để tán hàn giải biểu; bán hạ, trần bì để hóa đờm, táo thấp.
- Nếu ho nhiều, đờm vàng đặc, nặng tiếng, họng đau, khát nước nhiều, mạch phù sác là ngoài lạnh trong nóng, áp dụng cách điều trị bên trên kèm theo phải thanh nhiệt ở lý, tán hàn ở biểu như các vị thuyền thoái, cát cánh, tang diệp, bạc hà.
Thể phong nhiệt khái thấu
- Các triệu chứng: Ho, đờm vàng đặc, họng đau khát nước, chảy nước mũi, người nóng, sợ gió, đổ mồ hôi, đau đầu, đau mình; lưỡi vàng hoặc trắng, mạch phù sác. Các triệu chứng trên là do phong nhiệt phạm vào phế làm cho phế khí không được thanh, vinh vệ không được điều hòa gây nên.
- Phép chữa: Sơ phong, thanh nhiệt, tuyên thông phế khí.
- Sử dụng bài thuốc: Tang cúc ẩm gia giảm. Trong bài thuốc này dùng các vị cay mát như tang diệp, cúc hoa, bạc hà, liên kiều để giải biểu thanh phong nhiệt; hạnh nhân, cát cánh, lô căn để thanh nhiệt hóa đờm; gia ngưu bàng tiền hồ để tuyên thông phế khí.
Thể khô táo (thu táo)
- Khái thấu xuất hiện vào mùa thu khô táo (bệnh cảm phải khí táo mùa thu), có cả phong hàn, phong nhiệt, có các triệu chứng ho khan, ít đờm miệng khô, họng rát, gai sốt, sợ gió, đờm vàng tía hoặc có dây ít máu, rêu lưỡi vàng, đầu lưỡi đỏ, không có mồ hôi, mạch phù khẩn. Khô táo gây nên ho, ít đờm, miệng khô họng rát là phong nhiệt. Nếu sợ lạnh, không có mồ hôi, đau mình là phong hàn.
- Ở thể này, Đông y đưa ra phép chữa: Dưỡng phế, nhuận táo, thuộc ôn táo (khô ẩm) thì sơ phong thanh nhiệt; thuộc lương táo (khô mát) thì sơ phong tán hàn.
- Thuốc dùng bài: Tang hạnh thang gia giảm. Trong bài dùng các vị cay mát như tang diệp, đậu đen để sơ phong, sa sâm, quả lê để dưỡng ẩm nhuận phế; hạnh nhân, bối mẫu để hóa đờm, chữa ho. Ho do ôn táo gia mạch môn, qua lâu, lỗ căn; do lương táo thì bỏ tang diệp, quả lê gia phòng phong, kinh giới, tự uyển, khoản đông hòa .
- Trường hợp bệnh lâu không khỏi hoặc bệnh tái phát thì dùng bài chỉ thấu tán gia giảm.
1.2. Khái thấu do nội thương
Hay còn gọi là ho do mất điều hoà chức năng các tạng phủ. Khái thấu nếu do nội thương, bệnh lâu khỏi, dễ phát triển thành mãn tính thì phải xem xét nguồn gốc gây bệnh và ở tạng phủ nào mà điều chỉnh tạng phủ lấy ví dụ như dưỡng phế, kiện tỳ, thanh hỏa, bổ thận, nạp khí…
Phế bị tổn thương hoặc các tạng phủ khác bị hư tổn, ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến phế gây nên khái thấu nội thương, hoặc do tạng phủ bị thương tổn, vinh vệ không tốt cũng dễ bị nhiễm ngoại tà gây nên khái thấu. Nội thương khái thấu trên lâm sàng thường thấy có 3 loại gồm :
Khái thấu thấp đờm
- Người bệnh ho nhiều, nhiều đờm màu trắng đặc, lồng ngực tức, lưỡi trắng nhợt, chán ăn mệt mỏi. Nguyên nhân là do thấp đờm gây trở ngại đến khí quản và phổi nên tạo phản xạ ho, đau tức ngực, buồn bực, chán ăn là hiện tượng tỳ bị thấp đờm gây nên.
- Phép chữa: Táo thấp hóa đờm, kiện tỳ vị. Khi bệnh tăng thì hóa đờm táo thấp là chính, khi bệnh giảm thì dưỡng vị kiện tỳ là chính.
- Thuốc dùng bài: Bình vị tán gia vị. Trong bài dùng gia ngưu bàng, trần bì, ý dĩ, hạnh nhân, để hóa đờm thông phế, khi bệnh thuyên giảm uống bài lục quân từ tháng tức hóa đờm kiện tỳ thang.
Can hoả phạm phế
- Người bệnh ho nhiều hơi tức ngược lên ngực, khó chịu. Nguyên nhân do can khí uất kết, khí hóa thành hỏa, can hỏa phạm vào phế nên ho, khí nghịch lên, đau khi ho, mạch huyền sác, miệng khô họng rát cùng do can hỏa và phế hỏa gây nên .
- Phép chữa: tả hỏa, thanh can; nhuận phế hóa đờm.
- Thuốc dùng bài: thanh phế hóa đờm thang gia giảm. Trong bài dùng hoàng cầm, chi tử để thanh can hỏa. Hoàng cầm đi với tang bì để thanh phế hỏa; qua lâu, bối mẫu, mạch môn dưỡng âm, nhuận phế, tiêu đờm, chữa ho.
Phế hư khái thấu
- Đây là trường hợp ho tương đối lâu, mãn tính, thường ho khan, ít đờm, hoặc trong đờm có máu, thể trạng gầy yếu mệt mỏi, kém ăn, miệng khô họng ráo, sốt nhẹ về chiều, hai bên mép và lưỡi đỏ, lòng bàn chân bàn tay nóng, ít ngủ, ra mồ hôi trộm, mạch tế sác.
- Nguyên nhân do phế âm kém, phế khí yếu và ngược lên nên ho khan, ít đờm, âm hư, thủy dịch thiếu dẫn đến sinh táo nhiệt miệng khô họng ráo, các triệu chứng như sốt về chiều, ngủ ít, ra mồ hôi trộm, lưỡi đỏ, mạch tế sác là do âm hư hỏa vượng.
- Phép chữa: Dưỡng âm thanh phế, hóa đờm trị ho.
- Sử dụng bài thuốc: Sa sâm mạch đông thang gia giảm. Trong bài dùng sa sâm, mạch môn, ngọc trúc, thiên hoa phấn dưỡng âm, sinh tân dịch, nhuận phế, chữa ho; biển đậu, cam thảo để kiện tỳ, bổ trung, gia hạnh nhân, bối mẫu để tăng thêm hiệu lực chữa ho hóa đờm. Nếu trong đờm có máu thì gia thêm tang bì, ngó sen, tam thất để chỉ huyết (cầm máu). Nếu sốt về chiều, nóng trong nhiều gia sài hồ, hoàng liên, địa cốt bì.