Rau sạch, rau an toàn vẫn chưa có chỗ đứng vững chắc tại thị trường trong nước(Ảnh: K.V)
Rau xanh là thực phẩm không thể thiếu trong mỗi bữa ăn hằng ngày. Do vậy, để đáp ứng nhu cầu của các gia đình, một lượng lớn rau xanh được cung cấp ra thị trường hàng ngày từ rất nhiều nguồn, thậm chí rau xanh còn được nhập về từ các nước khác trong khu vực. Để đáp ứng nhu cầu nói trên, hầu hết các địa phương đều có những vùng trồng rau xanh, nhất là tại các tỉnh, thành phố tập trung đông dân cư và có nhiều khu chế xuất, khu công nghiệp như thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Tây Ninh, Bà Rịa- Vũng Tàu.v.v…
Tại những địa phương này, các khu vực trồng rau sạch, rau an toàn đã được qui hoạch, nhiều hộ tham gia, thậm chí đã thành lập ra các hợp tác xã, tổ hợp tác trồng rau sạch, rau an toàn. Tuy nhiên, các loại rau nói trên vào được thị trường không phải là dễ.
Toàn tỉnh Tây Ninh hiện có hơn một chục hợp tác xã, tổ sản xuất rau an toàn. Cùng với đó là hàng nghìn hộ sản xuất rau theo hướng nhỏ lẻ phạm vi gia đình. Hàng năm, diện tích trồng rau an toàn ở Tây Ninh khoảng 14.000 đến 15.000 ha, từ năm 2012 đến nay, Tây Ninh xây dựng mỗi huyện một mô hình sản xuất rau theo hướng VietGAP được chứng nhận của Trung tâm Đo lường chất lượng III. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất là đầu ra của sản phẩm, kế đến là giá cả bấp bênh. Hiện nay có đến 70% rau của tỉnh Tây Ninh tiêu thụ ở thành phố Hồ Chí Minh, nhưng chủ yếu là cung cấp cho một số chợ đầu mối như chợ Bình Điền, chợ Thủ Đức, Hóc Môn, Bình Chánh… chứ chưa thể vào nổi các siêu thị.
Để mặt hàng rau sạch, rau an toàn nói riêng và hàng nông sản nói chung có thị trường, tỉnh Bình Dương cũng đã mở chợ phiên nông sản an toàn gắn kết giữa sản xuất và tiêu dùng từ cuối năm 2015, đây là hoạt động nhằm gắn kết giữa sản xuất – chế biến và tiêu thụ, nhưng trên thực tế, đầu ra cho nông sản an toàn và cách tiếp cận thị trường của các cơ sở sản xuất nông sản vẫn còn nhiều khó khăn. Ông Nguyễn Văn Tiến, một hộ trồng rau xanh ở thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương cho biết, sản phẩm rau xanh của gia đình ông làm ra đều mang ra chợ của khu phố bán cho công nhân lao động, nhiều khi sản xuất ra số lượng nhiều, giá cả xuống thấp, mặc dù biết có phiên chợ như vậy trên địa bàn, nhưng ông và những người trồng rau trên địa bàn chưa một lần tới đó để tiếp cận thị trường, bởi cũng chưa hiểu rõ mình sẽ được những gì khi mang sản phẩm đến đây.
Bà Đào Thị Thúy, hộ trồng rau xanh ở phường Tân Biên, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai cho biết, khi tham gia vào mô hình sản xuất rau an toàn, được hướng dẫn chu đáo, cụ thể, gia đình và những hộ trồng rau ở địa phương rất phấn khởi, nhưng chỉ được một vài vụ, hiệu quả kinh tế không như mong muốn, nên nhiều hộ đã quay sang trồng theo phương pháp cũ. Bà Thúy cho biết thêm, thời gian để sản xuất ra các loại rau đạt tiêu chuẩn thực hành nông nghiệp sạch VietGAP hoặc rau an toàn nhiều hơn các loại rau thông thường khác, nhưng giá bán lại bằng nhau, chính vì thế, người nông dân lại phải tự cân đối cho việc sản xuất của chính mình.
Là một trong hơn hai chục tổ sản xuất, hợp tác xã được ngành nông nghiệp tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cấp giấy chứng nhận an toàn vệ sinh thực phẩm trong sản xuất rau an toàn. Nhưng Hợp tác xã rau an toàn Thắng Lợi (xã Phước Hưng, huyện Long Điền) cũng đang gặp nhiều khó khăn. Ông Nguyễn Văn Bình, Chủ tịch Hội đồng quản trị Hợp tác xã cho biết, Hợp tác xã hiện có khoảng 8 ha trồng rau, củ, quả, trong đó có hơn 5 ha trồng rau an toàn. Mỗi tháng, Hợp tác xã cung ứng ra thị trường khoảng 30 tấn rau an toàn. Tuy nhiên, rau an toàn của Hợp tác xã vẫn chỉ bán được cho các thương lái như các loại rau thông thường khác nên lãi từ trồng rau không cao. Để duy trì sản xuất rau an toàn, Hợp tác xã phải đi vận động từng hộ, từ 81 xã viên vào năm 2014, hiện cũng chỉ còn lại 45 xã viên tham gia sản xuất, cung ứng rau an toàn. Thời gian qua, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất rau an toàn cho 22 tổ sản xuất, với diện tích hơn 100 ha. Đồng thời đầu tư 6 nhà sơ chế rau an toàn, tuy nhiên đến nay chỉ còn 4 nhà sơ chế hoạt động. Còn 2 nhà sơ chế đã dừng hoạt động vì không hiệu quả.
Tương tự như vậy, tổng diện tích trồng rau an toàn của tỉnh Long An hiện là trên 6300 ha, trong đó, diện tích đăng ký sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP là 90 ha. Tuy nhiên, việc tìm đầu ra tiêu thụ sản phẩm rau, quả VietGAP của các hợp tác xã trong tỉnh này cũng gặp rất nhiều khó khăn. Lãnh đạo Liên hiệp Hợp tác xã tỉnh Long An cho biết, đa số các hợp tác xã sản xuất rau củ quả VietGAP trong liên hiệp, mỗi ngày chỉ mới cung cấp cho các siêu thị, đơn vị phân phối nhỏ lẻ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ 500 kg – 2 tấn rau các loại, một con số khá khiêm tốn so với tiềm năng.
Thành phố Cần Thơ hiện có 7 điểm bán rau sạch, rau an toàn nằm trên địa bàn 2 quận Ninh Kiều và Bình Thủy. Tuy nhiên, người tiêu dùng khi đi chợ thường có thói quen lựa chọn những loại rau quả có màu sắc đẹp, bắt mắt, giá lại rẻ so với rau an toàn nên việc tiêu thụ gặp khó khăn. Người tiêu dùng không quan tâm đến rau an toàn cũng bởi giá rau loại này thường cao hơn các loại rau khác từ 4.000 – 7.000 đồng/kg. Bà Nguyễn Thị Kiều, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố Cần Thơ cho biết, hiện Thành phố có 7 điểm bán rau sạch, an toàn, nhưng chỉ có 3 điểm hoạt động hiệu quả, số còn lại gặp khó khăn do nguồn hàng không đa dạng, giá cao. Mặt khác, người dân vẫn có thói quen sử dụng các loại rau quả nhưng ít quan tâm đến nguồn gốc.
Theo ngành chức năng của các địa phương, nguyên nhân rau an toàn, rau sạch chưa tiếp cận được vào thị trường thành phố Hồ Chí Minh, cũng như các đô thị khác, trong khi nhu cầu của người dân đang tăng mạnh, là do quá trình thực hiện, chuyển đổi qua sản xuất rau VietGAP được thực hiện chưa lâu. Mặt khác, việc kết nối vùng nguyên liệu sạch gặp khó khăn thì trong chuỗi thực phẩm an toàn hiện nay việc tham gia giữa các doanh nghiệp còn thiếu chặt chẽ. Có những chuỗi sản phẩm doanh nghiệp chỉ tham gia ở khâu cung ứng đầu vào, thiếu đơn vị đứng ra bao tiêu, chế biến, bảo quản và vận chuyển. Chính vì thế, sản phẩm nông dân làm ra dù đảm bảo an toàn, nhưng trong khâu vận chuyển, tiêu thụ chưa đảm bảo, khiến sản phẩm cuối cùng đến tay người tiêu dùng chất lượng lại không đảm bảo.
Một nguyên nhân nữa là do hình thức quản lý thực phẩm theo chuỗi hiện nay còn là vấn đề khá mới nên việc tiêu thụ sản phẩm được kiểm soát theo “Chuỗi thực phẩm an toàn” đang gặp nhiều khó khăn ở khâu phân phối, lưu thông, quảng bá ra thị trường. Tới đây, ngành nông nghiệp các địa phương sẽ phải tổ chức đánh giá kết quả thực hiện của đề án “Chuỗi thực phẩm an toàn”, đồng thời công bố rộng rãi các cơ sở rau an toàn trong chuỗi, để đưa sản phẩm rau an toàn đến gần hơn với người tiêu dùng.
Có thể nói, an toàn vệ sinh thực phẩm đang là vấn đề cấp thiết hiện nay. Việc đưa các sản phẩm rau sạch, an toàn đạt tiêu chuẩn, có kiểm định, có truy xuất nguồn gốc là việc làm cần được nhân rộng, nhằm hình thành một thói quen tiêu dùng mới. Qua đó, phong trào “nói không” với sản phẩm sản xuất độc hại, ảnh hưởng sức khỏe cho cộng đồng ngày càng được nhân rộng và phát huy hiệu quả, từ đó sản phẩm rau sạch, rau an toàn mới có chỗ đứng vững chắc trên thị trường./.