Như trên đã trình bày, Erythropoietin là một loại hormone có vai trò kích thích tạo hồng cầu,
Từ năm 1983, nhờ kỹ thuật tái tạo gen, các công ty Dược phẩm đã sản xuất được erythropoietin giống như erythropoietin tự nhiên của người và gọi là erythropoietin người tái tổ hợp (recombinant human erythropoietin, viết tắt là rHuEPO). Đây thực sự là một cuộc cách mạng trong điều trị thiếu máu do suy thận mạn và phương pháp điều trị thay thế erythropoietin nội sinh bằng erythropoietin-stimulating agents (viết tắt là ESAs) được khởi xướng và phát triển. Hiện tại đang có 3 nhóm ESA dùng điều trị thiếu máu do suy thận mạn:
- ESA tác dụng ngắn: EPO alpha (eprex, epogen, epokin)và EPO bêta (neorecormon). Quãng tiêm: 2 – 3 lần/tuần.
- ESA tác dụng trung bình: Darbepoetin alpha – Aranesp. Quãng tiêm 1 – 2 lần/2 tuần.
- ESA tác dụng kéo dài: Mircera. Quãng tiêm 1 lần/4 tuần.
Các loại thuốc Erythropoietin được chỉ định sử dụng ở bệnh nhân thiếu máu trong suy thận mạn tính ở bệnh nhi và người lớn thẩm phân máu, thẩm phân phúc mạc, hoặc thiếu máu do các nguyên nhân khác như nhiễm HIV, thiếu máu do hóa trị liệu ung thư không phải dạng tủy bào, loạn sản tủy nhẹ- trung b2nh ở người lớn, tạo điều kiện cho quá trình lấy máu tự thân tiền phẫu thuật & làm giảm nguy cơ phải truyền máu dị thân.
Các loại thuốc Erythropoietin chống chỉ định trong các trường hợp quá mẫn với thuốc, tăng huyết áp không kiểm soát được và bất sản nguyên hồng cầu
Cần đặc biệt thận trọng với trường hợp người bệnh bị nguy cơ tăng huyết áp, huyết khối mạch máu, tiền sử động kinh, bệnh gút, rối loạn chuyển hóa porphyrin.
Khi sử dụng các loại thuốc erythropoietin, người bệnh có thể gặp phải một số tác dụng phụ như: buồn nôn, tiêu chảy, nôn ói; ớn lạnh, bệnh giống cúm, phản ứng nơi tiêm, sốt, phù ngoại vi; tăng kali máu; đau khớp, đau xương, đau cơ, đau các đầu chi; co giật, đau đầu; ho, nghẽn đường hô hấp; phát ban; huyết khối và thuyên tắc, huyết khối tĩnh mạch sâu, huyết khối, tăng huyết áp.