Căn cứ Kế hoạch số 197/KĐTP-T3G ngày 12/9/2019 của Khu Điều trị Phong về Kế hoạch hoạt động truyền thông – giáo dục sức khỏe năm 2020;
Căn cứ kết quả đề tài nghiên cứu khoa học: “Khảo sát công tác tư vấn và ghi chép hồ sơ về giáo dục sức khỏe của Điều dưỡng tại Khu Điều trị Phong năm 2020”;
Tổ Truyền thông Giáo dục sức khỏe đánh giá hiệu quả hoạt động GDSK tại các khoa lâm sàng năm 2020 như sau:
I. Thông tin chung
Bảng 1. Đặc điểm của đối tượng tham gia khảo sát. (Tổng số N = 104)
Đặc điểm
n
%
Tuổi
≤ 60
23
22.1
> 60
81
77.9
Giới tính
Nữ
51
49
Nam
53
51
Dân tộc
Kinh
86
82.7
Khác
18
17.3
Khoa điều trị
Nội – Nhiễm
19
18.3
Ngoại
39
37.5
DL Nam
25
24
DL Nữ
21
20.2
Nhận xét: Bảng 1 cho thấy đối tượng tham gia nghiên cứu phần lớn trên 60 tuổi (77.9%); Tỷ lệ giới tính khá tương đồng. Đối tượng tham gia nghiên cứu phần lớn là dân tộc Kinh (82.7%); chủ yếu ở khoa Ngoại (37.5%), ít nhất là Nội – Nhiễm (18.3%).
I. Phân tích đánh giá
2.1. Đánh giá chung việc ghi hồ sơ GDSK của ĐD
Biểu đồ 1. Đánh giá chung việc ghi hồ sơ GDSK của ĐD
Trong số 104 hồ sơ được khảo sát, có 75% hồ sơ được ghi chép phần tư vấn giáo dục sức khỏe ngay khi Người bệnh nhập viện.
84.6% hồ sơ được ghi chép phần giáo dục sức khỏe trong thời gian Người bệnh nằm viện điều trị nội trú.
2.2. Đánh giá việc tư vấn giáo dục sức khỏe của ĐD
Biểu đồ 2. Người bệnh được Điều dưỡng tư vấn giáo dục sức khỏe
Trong thời gian nằm viện, 100% Người bệnh cho biết họ được tư vấn giáo dục sức khỏe.
Biểu đồ 3. Các nội dung tư vấn giáo dục sức khỏe
Công tác tư vấn tự chăm sóc theo dõi và phòng bệnh: 100% NB cho biết họ được tư vấn, tuy nhiên, chỉ có 22.1% hồ sơ được ghi chép lại.
Công tác tư vấn chăm sóc tinh thần cho NB: 99% NB được tư vấn trong khi chỉ có 2.9% hồ sơ được ghi chép lại.
Công tác tư vấn chăm sóc thể chất cho NB: 97.1% NB được tư vấn trong khi chỉ có 4.8% hồ sơ được ghi chép lại.
Công tác tư vấn chăm sóc dinh dưỡng: có 96.2% NB được tư vấn, 65.1% hồ sơ được ghi chép lại.
Công tác tư vấn chăm sóc phục hồi chức năng: 81.7% NB được tư vấn, 20.2% hồ sơ được ghi chép lại.
2.3. Đánh giá sự hài lòng của NB về công tác tư vấn giáo dục sức khỏe của ĐD
Biểu đồ 4. Đánh giá sự hài lòng NB theo thang điểm Likert
Trong số 104 NB tham gia nghiên cứu, có 24 NB không hài lòng chiếm 19.2%; 80 NB hài lòng và rất hài lòng chiếm 80.8%.
Biểu đồ 5. Đánh giá sự hài lòng NB theo từng phạm vi
Công tác tư vấn hướng dẫn tự chăm sóc theo dõi và phòng bệnh: 96.8% NB hài lòng và rất hài lòng.
Công tác tư vấn chăm sóc tinh thần cho NB: 95.5% NB hài lòng và rất hài lòng.
Công tác tư vấn chăm sóc thể chất cho NB: 86.2% NB hài lòng và rất hài lòng.
Công tác tư vấn chăm sóc dinh dưỡng: 96.2% NB hài lòng và rất hài lòng.
Công tác tư vấn chăm sóc phục hồi chức năng: 71.1% NB hài lòng và rất hài lòng.
III. Các hạn chế cần khắc phục
3.1. Hạn chế
3.1.1. Công tác tư vấn giáo dục sức khỏe
Sự hài lòng của NB về công tác tư vấn chăm sóc phục hồi chức năng đạt tỷ lệ chưa cao, chiếm 71.1%; đặc biệt là các biện pháp tập luyện tại giường, có 70.2% NB hài lòng khi được ĐD giúp đỡ vận động tại giường khi có khó khăn về vận động; 70.2% NB hài lòng với việc được ĐD hướng dẫn luyện tập phục hồi chức năng đề phòng ngừa biến chứng.
3.1.2. Việc ghi hồ sơ tư vấn giáo dục sức khỏe
Việc ghi chép hồ sơ về công tác tư vấn GDSK còn nhiều hạn chế, mặc dù ĐD có thực hiện tư vấn GDSK cho NB nhưng còn rất nhiều hồ sơ không được ghi chép lại. Hơn nữa, đa phần, ĐD quan tâm ghi chép về chế độ dinh dưỡng là chủ yếu (61.1%), thường bỏ qua việc ghi chép về công tác chăm sóc tinh thần (2.9%) và thể chất (4.8%) của NB.
3.2. Giải pháp khắc phục
3.2.1. Công tác tư vấn giáo dục sức khỏe
Cần có một quy định chung cho ĐD về nội dung cần tư vấn GDSK cho NB điều trị nội trú tại KĐTP.
Phối hợp với khoa VLTL – PHCN, phòng Điều dưỡng để tập huấn cho đội ngũ Điều dưỡng.
Tiếp tục duy trì và tăng cường các khóa tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng thực hiện công tác truyền thông cho nhân viên y tế thường xuyên hơn, nâng cao năng lực tổ chức các hoạt động truyền thông, cách tổ chức tư vấn, tổ chức các buổi nói chuyện trực tiếp…
3.2.2. Việc ghi hồ sơ tư vấn giáo dục sức khỏe
Thực hiện nghiêm túc công tác bình bệnh án để chỉ ra các sai sót, rút kinh nghiệm trong việc hực hiện quy chế HSBA.
Tăng cường vai trò lãnh đạo khoa trong việc kiểm tra về công tác làm HSBA.
IV. Kết luận
Công tác chăm sóc NB của ĐD nói chung và công tác tư vấn GDSK nói riêng tại các khoa nội trú KĐTP được thực hiện khá tốt, nhận được đánh giá cao của NB. Tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục trong năm tiếp theo để việc chăm sóc NB ngày một tốt hơn, tiến tới sự hài lòng NB.