1. Cách Tòa thánh Cao Đài Tây Ninh khoảng 2km về hướng đông đông nam có một địa danh được gọi là Sân Cu. Đó là một gò đất khoảng 5ha, trồi lên giữa một vùng đất trũng rộng lớn.
Các bậc cao niên địa phương cho biết, ngày xưa vùng bưng (vùng đất trũng) này ngập ngước quanh năm, chỉ có cỏ năng, cỏ lác mọc hoang vu chứ không đông đúc nhà cửa như bây giờ. Trước năm 1930, bỗng dưng có một đàn chim cu đất hàng chục ngàn con từ đâu bay về chiếm gò đất cao giữa bưng làm nơi trú ngụ. Ban ngày, chúng tỏa đi các hướng tìm thức ăn, ban đêm tề tựu về gò đất. Chỉ sau một thời gian, cây cỏ trên gò đất bị đàn chim cu giẫm chết hết. Đất trơ thành một nền cứng, láng. Do đó, người dân gọi vùng gò đó là Sân Cu.
Đặc biệt trong đàn có một cặp chim cu chúa có lông màu trắng nổi bật giữa đàn màu xám tro. Những đêm trăng thanh, người ta thấy cặp chim cu chúa đứng giữa xòe cánh như khiêu vũ cho hàng chục ngàn con cu khác làm theo. Khi cặp chim cu chúa xòe cánh xoay vòng theo hướng trái thì hàng ngàn con khác cũng xoay theo hướng trái. Cả đàn cùng đồng điệu nhịp nhàng khiến cả vùng đất rộng như chuyển mình dậy sóng.
Ông Đỗ Văn Bọt, thường được gọi là Tám Bọt, sinh năm 1932, cư ngụ tại Sân Cu kể: “Hồi 4 – 5 tuổi, tôi có theo cha đi xem cu múa vào những đêm trăng. Lúc đàn chim cu mới đến, vài người bắt làm thịt. Sau đó thấy đàn chim ngày càng đông, lại thấy cặp chim cu chúa, người ta cho là có “đấng bề trên” điều khiển nên sợ, không dám bắt chim cu nữa. Đàn chim trú ngụ ở đó hàng chục năm. Tới năm 1940, đàn chim cu thưa dần rồi mất tích hẳn. Một số người đồn đoán là cặp cu trắng chết nên đàn chim cu bỏ đi”.
Cũng theo ông Tám Bọt, một số bậc cao niên khác cho rằng, thời điểm đó, chiến tranh Nhật – Pháp đã lan đến Tây Ninh khiến đàn cu sợ tiếng bom đạn nên rời đi. Một số người có niềm tin vào đấng thiêng liêng huyền bí thì cho rằng, đàn chim cu là tín hiệu báo trước một tôn giáo sắp được khai mở tại đây. Khi Tòa thánh Tây Ninh được xây cất, đàn chim cu hoàn thành nhiệm vụ báo tin nên… giải tán(?). Và đó cũng là lý do xuất hiện một nhóm người tự xưng là giáo phái Tiên Thiên Tuyệt Cốc, cũng có người gọi là Tiên Thiên Tịch Cốc (không liên quan đến đạo Cao Đài Tiên Thiên bây giờ – TG).
Di tích một số lăng mộ của những người từng theo “Tiên Thiên Tuyệt Cốc”.
Ông Tám Bọt và một số cụ cư ngụ tại Sân Cu kể rằng, thuở nhỏ họ có chứng kiến một nhóm vài chục người tụ tập họp lại học phép để thành tiên tại trần thế. Đứng đầu là một người tên Nguyễn Ngọc Điền, thường được gọi là ông Chín Ruộng.
2. Không ai biết quê quán thật của ông Chín Ruộng ở đâu. Một trong số những đồ đệ thế hệ đầu tiên của Giáo chủ Phạm Công Tắc cho biết, vào ngày khai đạo tại chùa Gò Kén (chùa Từ Lâm ở xã Hiệp Thạnh, Hòa Thành, Tây Ninh) vào ngày 19/11/1926, ông Chín Ruộng có tham gia với tư cách là tín đồ Cao Đài. Lúc đó, mọi người có nghe chính ông Chín Ruộng kể là ông từng tu luyện thành tiên trên núi Thiên Cẩm Sơn, tức núi Cấm (An Giang).
Đến tháng 10/1931, khi khởi công xây cất Tòa thánh Cao Đài Tây Ninh, ông Chín Ruộng có tham gia trong đội ngũ nhân công hiến dâng công sức (tín đồ Cao Đài Tây Ninh gọi là làm “công quả”). Bỗng dưng, năm 1933, ông Chín Ruộng lôi kéo một số nhân công làm “công quả” bỏ việc kéo nhau về một địa điểm dưới chân núi Bà Đen, gọi là Sân Đình (thuộc huyện Dương Minh Châu) lập một tôn giáo mới.
Ông Chín Ruộng tự xưng là “Tiên Vương”, tức là vua của các tiên trên trời. Ông đặt tên tôn giáo mới của mình là Tiên Thiên Tuyệt Cốc (Tiên trên trời, không ăn các loại ngũ cốc). Ông cạo đầu, luôn mặc áo cà sa màu đen, một tay cầm xâu chuỗi nặng hơn 1 kg, một tay liên tục xoa bóp không khí (ông cho rằng đó là động tác bắt ấn ban phép lạ). Ông kêu gọi, ai muốn thành tiên tại trần thế đi theo ông làm đệ tử vì ông biết bí pháp để con người tu luyện. Ông thường đem chuyện Thần Khuyển của nhân vật Nhị Lang Thần Dương Tiễn trong truyện Tàu ra kể rồi kết luận với các đệ tử: “Con vật còn tu luyện thành tiên được, huống hồ con người”.
Cụ bà N.T.N.G., 82 tuổi, cư ngụ Ninh Điền, Hòa Thành, Tây Ninh cho biết, cha của cụ là đệ tử thế hệ đầu tiên của ông Chín Ruộng. Lúc đó, ông Chín Ruộng bắt các học trò “tuyệt cốc” (không ăn các loại ngũ cốc). Ông Chín Ruộng giải thích, ăn ngũ cốc khiến cơ thể con người nặng nề không bay lên trời làm tiên được. Khi đói, ông và các học trò chỉ ăn rau luộc, với muối. Cứ mỗi 5 giờ chiều, ông bắt học trò ngồi thiền đến 5 giờ sáng để hấp thu linh khí từ sương trời. Sau đó, ông bắt các đệ tử luyện phép “lăng ba vi bộ” (đi trên ngọn cỏ). Các đệ tử đứng xếp thành 1 hàng, mỗi người cách nhau 10 mét, mắt hướng về đỉnh núi Bà Đen. Theo hiệu lệnh của ông, mọi người đồng loạt sải chân đi thật nhanh.
Một nhân chứng kể về dị giáo “Tiên Thiên Tuyệt Cốc”.
Cụ N.T.N.G. cười sảng khoái: “Ăn toàn rau, cỏ nên ai nấy ốm tong ốm teo như cây sậy khô. Khi họ đi nhanh, trông như bay trên ngọn cỏ nhưng thật sự là chân họ chạm đất. Thế mà cha tôi và mấy người đó cứ khoe với nhau là họ bay là là trên ngọn cỏ. Lúc ấy, tôi còn nhỏ xíu chưa biết lẽ đời nên nói: Con thấy chân ai cũng chạm đất. Thế là cha tôi phạt tôi quỳ gối vì… ma quỷ nhập nên nói bậy. Khi đi “lăng ba vi bộ”, người nào tạo ra tiếng chân cũng bị phạt. Vì ăn uống kham khổ, một số người yếu sức, đi được vài cây số đã ngã lăn bất tỉnh. Thế là bị đuổi khỏi đạo. Ông Chín Ruộng giải thích, những người đó nặng nợ thế gian, không có phúc thành tiên”. Lúc đầu hàng trăm người theo “Tiên Vương” sau vài tháng “tu luyện” chỉ còn vài chục người.
Hàng ngày, đoàn người “lăng ba vi bộ” nhắm hướng đỉnh núi Bà Đen đi nhưng chỉ đến chân núi thì “Tiên Vương” bắt chui vào hốc cây, hang đá ngồi tọa thiền tiếp.
3. Một ngày đầu năm 1935, “Tiên Vương” tuyên bố là các học trò đã luyện xong phần “thoát tục”, cơ bản đã thành “tiên”.
Một đêm, “Tiên Vương” kêu cha của cụ N.T.N.G. vào dặn dò một số điều cơ mật. Sáng hôm sau, ông triệu tập các đệ tử đã thành “tiên” cùng những đệ tử đã bị “rớt đường tu” vào Sân Đình làm lễ “khai môn”. Trong buổi lễ này, sau khi cử hành một số nghi thức, “Tiên Vương” ngồi xếp chân, miệng niệm chú rồi cầm xâu chuỗi hướng về bộ ván gỗ nằm ở sát vách nhà hô lớn: “Bay!”. Trước ánh mắt kinh hãi của các đệ tử, bộ ván rục rịch chuyển động rồi nhỏng một đầu lên hơn 1 gang tay. “Tiên Vương” thu hồi ấn quyết rồi phán: “Các đệ tử đã tin vào quyền năng của ta chưa? Từ nay, ai chống lệnh, ta chỉ cần ném xâu chuỗi này vào người thì thân thể biến thành tro bụi, vong hồn bị giam cầm dưới địa ngục đời đời kiếp kiếp.
Không ai để ý đến một người đệ tử thân tín nhất của “Tiên Vương” đã âm thầm rời bỏ đạo trong tâm trạng thất vọng ê chề. Người này trở nên trầm cảm, mất niềm tin vào con người đã trở về nhà, đóng cửa tuyệt giao. Đó chính là cha của cụ N.T.N.G. Ông bỏ cái đạo “trời ơi” ấy vì… chính ông là người đứng đằng sau bức vách è cổ nâng bộ ván lên để “Tiên Vương” thể hiện “phép thuật”.
Cuối năm 1936, “Tiên Vương” cùng các học trò về núi Cấm (An Giang). “Tiên Vương” sai đệ tử dùng gỗ căm xe đóng 1 con ngựa sơn màu đen (giống loại ngựa bập bênh của trẻ con) rồi làm lễ “xuất tiên”. Ông mặc bộ cà sa màu đen ngồi trên con ngựa gỗ ấy, một tay cầm hàng chục chuỗi hạt, một tay cầm lá cờ màu đen rồi bắt đầu bập bênh. Sau mỗi nhịp bập bênh, con ngựa gỗ nhích được vài xentimét. Cứ thế, ông cưỡi ngựa gỗ bập bênh suốt 6 tháng ròng từ núi Cấm về chân núi Bà Đen (Tây Ninh). Hơn 40 đệ tử cũng mặc cà sa đen, đầu cạo trọc, tay lần tràng hạt, miệng đọc kinh Cao Đài, đi thành 2 hàng 2 bên bảo vệ. Khi cưỡi đến chỗ đất mấp mô hoặc lên đò vượt sông thì các đệ tử xúm nhau khiêng ngựa lẫn người qua. Mệt thì thầy trò lăn ra vệ đường ngủ. Đói thì thầy trò bứt rau, cỏ dọc đường bó lại nướng trên lửa rồi ăn.
Cùng thời điểm đó, một nhóm đệ tử còn lại ở Tây Ninh chọn Sân Cu xây cất một “đài bay”. Đài bay được cất bằng gỗ, cao khoảng 20 mét (có người cho là 40 mét). Dưới chân đài bay, họ lót sẵn vài trăm xe bò rơm thành một lớp dày khoảng 1 mét. Hai bên đài bay, họ cất 2 dãy nhà tranh, vách phên tre. Khi cưỡi ngựa gỗ về đến chân núi Bà Đen, “Tiên Vương” Chín Ruộng được các đệ tử thay nhau cõng từ chân núi về đài bay ở Sân Cu.
Từ đó, cứ mỗi chiều, người dân quanh khu vực Sân Cu có dịp xúm lại để xem thầy trò “Tiên Vương” Chín Ruộng tập luyện “bay về trời”. Suốt ngày họ đóng cửa ẩn trong 2 dãy nhà để luyện phép. Khi mặt trời sắp khuất, họ kéo nhau lên đài bay. Cứ mỗi lần chuẩn bị cho đệ tử bay, “Tiên Vương” Chín Ruộng dặn dò: “Nếu bay được thì bay luôn về trời chớ đừng trở lại trần thế nghen. Khi về tới trời, nhớ tâu với Ngọc Hoàng là ta còn lo việc trọng đại dưới trần gian, từ từ ta sẽ về sau”.
Mỗi người được cột 2 ống tre dọc thân người. Hai cánh tay đeo 2 cái cánh có gọng bằng tre, dán giấy trắng có vẽ hình lông chim bên ngoài. “Tiên Vương” Chín Ruộng đứng cạnh mép đỉnh đài bay, liên tục đọc thần chú và bắt ấn. Vừa kết thúc một câu thần chú dài, “Tiên Vương” hét: “Bay cao lên!”. Cùng lúc đó, “Tiên Vương” dùng chân đạp mạnh vào mông người đệ tử đang chuẩn bị “bay”.
Bị đạp văng ra khỏi đỉnh đài bay, người đệ tử ra sức vung tay quạt cánh. Dù vậy, vẫn rơi tòm xuống mặt đất. Cứ mỗi đệ tử rơi xuống, “Tiên Vương” lại lẩm bẩm: “Chưa thành chánh quả!”.
Ông Tám Bọt kể: “Tôi có thấy ai bay về trời được đâu. Rơi bịch bịch xuống đống rơm. Có người gãy tay, có người gãy chân, may là chưa có ai gãy cổ chết. Cứ mỗi ngày bay là có ít nhất 2 người bị nạn. Người bị nạn thì được người dân đưa đi nhà thương (bệnh viện) bó bột. Vậy mà khi lành lặn, cũng mò đến gặp Chín Ruộng tập bay tiếp”. Họ tập bay suốt nửa năm trời vẫn chưa tìm được “chánh quả”.
4. Bất ngờ, lúc nửa đêm 14/1 năm Mậu Dần (âm lịch), tức năm 1938, các tín đồ Cao Đài Tây Ninh phát hoảng khi “Tiên Vương” cùng các đệ tử bất thần xông vào chánh điện chiếm các bàn thờ (gồm 7 cái ngai Giáo Tông, Chưởng Pháp và ngai Đầu Sư) rồi leo lên ngồi. Có người chậm chân không chiếm được bàn thờ, chạy ra sân Đại Đồng Xã leo lên tượng Đức Phật Thích Ca cưỡi ngựa Càn Trắc ngồi. Hai nữ “tiên cô” tìm tượng Phật Quán Âm xô ngã rồi giành nhau đứng trên đài sen.
Một số khác không chiếm được vị trí nào thì quỳ phủ phục lạy những người chiếm được bàn thờ tung hô vạn tuế như thời phong kiến.
Tờ mờ sáng, ông Phủ Sữu – Chủ quận Châu Thành (nay là Hòa Thành) nghe tin đã lệnh cho ông Đội Tâm – Chánh đội Cò (chỉ huy cảnh sát) tỉnh Tây Ninh chỉ huy cảnh sát bao vây hốt gọn tất cả về Sở Cẩm (mật thám) giam giữ. Pháp cho lính đốt hết đài bay lẫn rơm cháy 3 ngày mới ngớt khói.
Sau đó, không ai còn trông thấy ông “Tiên Vương” Chín Ruộng nữa. Có lời đồn, Pháp đem ông ra sông dìm nước cho chết rồi thả trôi. Đám đệ tử của ông tự giải tán. Một số nhận ra hoàn đạo quy y đạo Cao Đài Chiếu Minh. Một số theo đạo Cao Đài Tây Ninh.
Ông Tám Bọt nhận xét: “Đó là kết quả của những kẻ kinh dị làm tà đạo. Nếu tu hành thuần khiết thì cứ đến Tòa thánh thành tâm cúng bái. Hà cớ chi tranh giành Tòa thánh để tự bêu tiếng xấu trăm năm?”