Tổng quan về thực trạng dinh dưỡng của người Việt
Tại Việt Nam, công tác dinh dưỡng nói chung, dinh dưỡng học đường nói riêng luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của Chính phủ. Ngày 28/4/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 641/QĐ-TTg phê duyệt Đề án tổng thể phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam giai đoạn 2011-2030. Trong đó, một chương trình cụ thể của Đề án là phát triển thể lực, tầm vóc cho học sinh thông qua chương trình dinh dưỡng học đường hợp lý. Ngày 22/02/2012, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 226/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược Quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn 2030, với mục tiêu trọng tâm là cải thiện tình trạng dinh dưỡng trẻ em.
Nhờ có những quyết sách đúng đắn, kịp thời đó, trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu về cải thiện tình trạng dinh dưỡng. Tỷ lệ suy dinh dưỡng (SDD) trẻ em đã giảm đáng kể, bữa ăn của người dân được bảo đảm hơn về số lượng và chất lượng. Việt Nam đã thực hiện thành công Mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ về giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng cân nặng theo tuổi ở trẻ em sớm hơn dự định.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với nhiều vấn đề dinh dưỡng còn tồn tại. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi còn ở mức cao; tỷ lệ thừa cân – béo phì đang có xu hướng gia tăng nhanh, nhất là ở khu vực thành thị; tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng chưa được cải thiện đồng đều; chế độ dinh dưỡng chưa hợp lý, ăn mặn, ăn ít rau và trái cây, thiếu vận động thể lực làm gia tăng nguy cơ bệnh tật. Tầm vóc của người Việt Nam chậm cải thiện và thấp hơn so với trung bình của nhiều nước trong khu vực. Chế độ dinh dưỡng cho trẻ em, học sinh chưa được quan tâm đầy đủ.
Đến nay, Việt Nam đã giảm được hơn 60% số trẻ bị suy dinh dưỡng thể nhẹ cân so với năm 1990, hoàn thành Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ về dinh dưỡng trẻ em trước thời hạn. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân ở trẻ em dưới 5 tuổi tiếp tục giảm nhanh liên tục trong những năm qua và được kỳ vọng tiếp tục giảm đáng kể trong những năm tới, song tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi vẫn còn ở mức cao (24,2% năm 2015). Tuổi thọ trung bình năm 2015 vẫn chưa đạt được mục tiêu của Kế hoạch 5 năm 2011-2015 (74 tuổi). Khoảng cách về các chỉ số dinh dưỡng, sức khỏe bà mẹ trẻ em giữa các vùng, miền, các nhóm dân cư vẫn còn khá lớn. Tỷ lệ suy dinh dưỡng giảm không đồng đều và vẫn còn rất cao ở các tỉnh miền núi phía Bắc, miền Trung và Tây Nguyên.
Thành tựu quan trọng của Việt Nam trong thời gian vừa qua là tình trạng đói ăn đã giảm trên diện rộng. Bữa ăn của người Việt Nam đã tăng dần lượng thịt, mỡ, đậu phụ, đường và quả chín. Tỷ lệ hộ gia đình có mức bình quân năng lượng thấp đã giảm hẳn ở hầu hết các tỉnh đồng bằng và khu vực thành phố. Tuy nhiên, theo điều tra của Viện Dinh dưỡng Quốc gia, khẩu phần ăn của người dân Việt Nam hầu hết không đáp ứng đủ 100% nhu cầu về các vitamin và chất khoáng. Theo kết quả điều tra quốc gia yếu tố nguy cơ bệnh không lây nhiễm năm 2015 (STEPS 2015) cho thấy có đến hơn một nửa số người trưởng thành (18 đến 69 tuổi) ăn ít rau/trái cây; mức tiêu thụ muối hiện nay của người Việt Nam cao gấp 2 lần mức khuyến nghị của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO).
Liên quan đến công tác dinh dưỡng học đường, những năm qua, việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ theo chỉ đạo của Chính phủ cũng đã có nhiều chuyển biến tích cực và đạt được một số kết quả nhất định. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Y tế ban hành nhiều tài liệu chuyên môn hướng dẫn về dinh dưỡng hợp lý. Vấn đề dinh dưỡng học đường đã được lồng ghép vào các chương trình chính khóa và hoạt động ngoại khoá. Công tác giáo dục, truyền thông về dinh dưỡng học đường, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ quản lý và cán bộ chuyên trách về công tác đảm bảo dinh dưỡng học đường cũng được quan tâm và đạt được những kết quả đáng khích lệ.
Giai đoạn trẻ ở độ tuổi mầm non và tiểu học là giai đoạn có tốc độ phát triển đặc biệt quan trọng để tích lũy các chất dinh dưỡng cho phát triển thể lực nhanh ở giai đoạn vị thành niên sau này. Nếu trẻ bị suy dinh dưỡng và thiếu vi chất dinh dưỡng ở giai đoạn này sẽ ảnh hưởng tới phát triển thể lực và trí tuệ. Vấn đề suy dinh dưỡng và thiếu vi chất dinh dưỡng ở trẻ em vẫn đang là vấn đề sức khỏe cộng đồng ở Việt Nam:
Kết quả điều tra tình trạng dinh dưỡng của Viện Dinh dưỡng Quốc gia năm 2017 cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ dưới 5 tuổi tại Việt Nam đã giảm mạnh nhưng vẫn còn cao: Tỷ lệ trẻ nhẹ cân: 13.8%; thấp còi: 23.8%. Tỷ lệ thừa cân béo phì của trẻ dưới 5 tuổi ở các tỉnh dao động từ 5.8% đến 15.7% (2013) tỷ lệ thấp còi của trẻ em lứa tuổi 6-9 tuổi là 13,7% và ở lứa tuổi 9-11 tuổi là 18,2%.
Khẩu phần ăn hàng ngày mới chỉ đáp ứng 96% năng lượng, 70% sắt, 69% kẽm, 35% vitamin A so với nhu cầu khuyến nghị dinh dưỡng của trẻ 2-5 tuổi. Mức đáp ứng nhu cầu sắt của khẩu phần trẻ từ 24-35 tháng chỉ đạt 57% và nhóm trẻ 36-59 tháng đạt khoảng 77%, vitamin A trong khẩu phần ăn của trẻ cũng chỉ đạt 65% so với nhu cầu khuyến nghị của người Việt Nam. Năng lượng khẩu phần của cả ba bữa ăn học sinh Việt nam từ 6-18 tuổi mới đáp ứng được 60% năng lượng khẩu phần cho trẻ. Theo kết quả tổng điều tra vi chất năm 2009 của Viện Dinh dưỡng Quốc gia, tỷ lệ thiếu vitamin A tiền lâm sàng (vitamin A huyết thanh thấp) ở trẻ em dưới 5 tuổi là 13,2% và được nhận định là vấn đề sức khỏe cộng đồng mức độ nhẹ (≥ 10% của dân số). Một vài năm gần đây, tuy được thế giới ghi nhận là có nhiều thành tựu trong việc giảm tỷ lệ thiếu vitamin A trên cộng đồng, nhưng vitamin A trong khẩu phần ăn của trẻ em Việt Nam vẫn còn rất thấp, mới đáp ứng được khoảng 65% so với nhu cầu khuyến nghị hàng ngày của trẻ. Ở các vùng núi phía Bắc, Tây Nguyên, khu vực miền Trung, lượng vitamin A động vật chỉ đáp ứng được 34%, 36% và 42% so với nhu cầu khuyến nghị.
Thiếu sắt vẫn đang là vấn đề cần quan tâm của trẻ em Việt Nam, theo kết quả nghiên cứu, lượng sắt trong khẩu phần hiện nay của trẻ trung bình là 6,5 mg/ngày mới đạt 73% so với nhu cầu khuyến nghị. Từ khẩu phần sắt thấp, chăm sóc nuôi dưỡng trẻ chưa hợp lý dẫn đến tỷ lệ thiếu máu của trẻ vẫn còn ở mức cao – với 29,2% trẻ dưới 5 tuổi bị thiếu máu và tỷ lệ thiếu máu ở trẻ dưới 6 tháng tuổi là 61,7%. Cùng với sắt, thiếu hụt khẩu phần kẽm cũng đang là vấn đề sức khỏe có ý nghĩa cộng đồng ảnh hưởng tới một tỷ lệ không nhỏ trẻ dưới 5 tuổi tại Việt Nam. Tại nhiều vùng nông thôn, tỷ lệ thiếu kẽm ở trẻ em dưới 1 tuổi vào khoảng 40%. Điều tra về tình hình thiếu vi chất năm 2010 trên 586 trẻ 6 tháng đến 75 tháng tại Việt Nam, kết quả cũng cho thấy tỷ lệ thiếu kẽm là 51,9%.
Nguyên nhân của tình trạng thiếu vi chất là do chế độ ăn chưa đáp ứng nhu cầu đề nghị về vi chất dinh dưỡng trong giai đoạn phát triển này của trẻ:
Điều tra khẩu phần ăn của trẻ từ 2-5 tuổi tại 6 tỉnh thành năm 2011 cho thấy khẩu phần ăn hàng ngày mới đáp ứng 96% năng lượng, 70% sắt, 69% kẽm, 35% vitamin A so với nhu cầu khuyến nghị dinh dưỡng; năng lượng đạt khoảng 76% nhu cầu đề nghị, khẩu phần canxi ở nhóm tuổi 6-9 tuổi đạt 59% nhu cầu đề nghị và ở nhóm tuổi 9-11 tuổi đạt 45% nhu cầu đề nghị, khẩu phần sắt của nhóm tuổi 6-9 tuổi đạt 68% nhu cầu đề nghị và nhóm tuổi 9-11 tuổi đạt 54% nhu cầu đề nghị, khẩu phần vitamin A của nhóm tuổi 6-9 tuổi đạt 54% nhu cầu đề nghị và nhóm tuổi 9-11 tuổi đạt 43% nhu cầu đề nghị, khẩu phần vitamin C sau chế biến của nhóm tuổi 6-9 tuổi đạt 61% nhu cầu đề nghị và nhóm tuổi 9-11 tuổi đạt 49% nhu cầu đề nghị, khẩu phần vitamin D của nhóm tuổi 6-9 tuổi đạt 18% nhu cầu đề nghị và nhóm tuổi 9-11 tuổi đạt 13% nhu cầu đề nghị.
Các thách thức trong bối cảnh mới tiếp tục đòi hỏi những nỗ lực cao trong hành động, hướng tới dinh dưỡng hợp lý và tăng cường sức khỏe cho trẻ ở độ tuổi học đường, góp phần đạt được mục tiêu phát triển con người mà Nhà nước đã cam kết thực hiện.