… I – Tiến trình lịch sử vĩ đại cải cách, phát triển nông thôn Trung Quốc 30 năm qua
Năm 1978, Hội nghị toàn thể Trung ương 3 khóa XI Đảng Cộng sản Trung Quốc đưa ra quyết sách mang tính lịch sử, chuyển trọng tâm công tác của Đảng và Nhà nước sang xây dựng kinh tế, tiến hành cải cách mở cửa… Tiến trình lịch sử vĩ đại của cải cách, phát triển nông thôn Trung Quốc về đại thể có thể chia thành 4 giai đoạn.
1 – Từ năm 1978 đến năm 1984 là giai đoạn đột phá cải cách nông thôn. Giai đoạn này, cải cách nông thôn bắt đầu từ việc nông dân đột phá tự phát thể chế công xã nhân dân. Một số vùng nông thôn của Trung Quốc đã tự phát hình thành các hình thức, chế độ trách nhiệm sản xuất nông nghiệp như khoán sản phẩm đến tổ, khoán sản phẩm, công việc đến hộ và được sự ủng hộ của Đảng. Năm 1980, Trung ương đã nêu rõ cần xây dựng và phổ biến chế độ trách nhiệm sản xuất với nhiều loại hình trong lĩnh vực nông nghiệp. Từ năm 1982 đến năm 1984, Trung ương liên tục ban hành 3 “văn kiện số 1″… Cùng với phổ biến rộng rãi chế độ khoán sản phẩm đến hộ gia đình, bắt đầu từ năm 1983, Trung Quốc đã tiến hành công tác tách chính quyền và công xã nhân dân, xóa bỏ công xã nhân dân để thành lập xã. Đến đầu năm 1984, cả nước tổng cộng đã thành lập được hơn 90 nghìn xã, thị trấn, hơn 900 nghìn thôn hành chính, cáo chung sự giải thể của thể chế công xã nhân dân. Cải cách của giai đoạn này đã làm thay đổi căn bản cơ sở tổ chức kinh tế vi mô ở nông thôn Trung Quốc, bảo đảm cho nông dân quyền tự chủ kinh doanh tương đối độc lập, đã huy động mạnh mẽ tính tích cực sản xuất của nông dân, giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất ở nông thôn, thúc đẩy nông nghiệp tăng trưởng với tốc độ cao, đặt cơ sở cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, tạo điều kiện cho cải cách và phát triển toàn diện nông thôn sau này.
2 – Từ năm 1985 đến năm 1991 là giai đoạn thúc đẩy toàn diện cải cách nông thôn. Hai năm 1985 – 1986, Trung ương liên tục ban hành 2 “văn kiện số 1”, tiến hành cải cách chế độ thống nhất thu mua, tiêu thụ nông sản, xác định rõ thực hiện hai chế độ thu mua là mua theo hợp đồng và mua theo giá trên thị trường. Ngoài lương thực và bông, giá cả các loại nông sản khác do cung cầu trên thị trường điều tiết. Cùng với việc thả nổi giá cả nông sản và thị trường bán buôn nông sản phát triển mạnh mẽ, một loạt thị trường bán buôn có tính khu vực và thị trường thương mại nông sản phát triển mạnh ở các nơi. Đồng thời, tích cực tiến hành điều chỉnh cơ cấu ngành nghề ở nông thôn, khuyến khích phát triển nhiều loại hình kinh doanh, tối ưu hóa cơ cấu ngành trồng trọt, thúc đẩy nông, lâm, ngư nghiệp và chăn nuôi phát triển toàn diện, khuyến khích nông dân làm dịch vụ nông nghiệp, thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển tổng hợp, từ thuần nông truyền thống sang đa ngành. Một loạt biện pháp trên đã thúc đẩy thị trường nông thôn sôi động, hơn nữa đã thúc đẩy các xí nghiệp hương trấn trỗi dậy vào giữa những năm 80 của thế kỷ XX. Thông qua cải cách trong giai đoạn này, kinh tế hàng hóa dần dần được hình thành trong kinh tế nông nghiệp và nông thôn, đã phát huy tác dụng ngày một lớn, đặt cơ sở cho kinh tế nông nghiệp và nông thôn quá độ toàn diện chuyển sang kinh tế thị trường.
3 – Từ năm 1992 đến năm 2001 là giai đoạn cải cách nông thôn chuyển toàn diện sang thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Tháng 2 – 1993, Trung ương ra thông báo nêu rõ thả nổi giá cả, thả nổi kinh doanh dưới sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, thúc đẩy hơn nữa theo hướng sản xuất lương thực hàng hóa, thị trường hàng hóa kinh doanh. Sau đó, Trung ương lại xác định rõ thời hạn khoán đất sẽ kéo dài thêm 30 năm, đồng thời thực hiện chính sách “bảo đảm định lượng, thả nổi giá cả” thu mua lương thực, tăng cường điều tiết vĩ mô đối với thị trường lương thực. Đồng thời, thông qua đẩy nhanh cải cách quyền sở hữu tài sản, đẩy nhanh tiến bộ kỹ thuật, cải thiện quản lý nội bộ, xí nghiệp hương trấn đã phát triển chưa từng thấy, trở thành lực lượng chủ thể của kinh tế nông thôn và trụ cột quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của Trung Quốc… Để định hướng lực lượng lao động nông thôn di chuyển một cách có trật tự, Nhà nước đã áp dụng một loạt chính sách, giải pháp nhằm tăng cường sự định hướng và quản lý đối với làn sóng di chuyển lực lượng lao động nông thôn. Qua cải cách ở giai đoạn này, các nguồn lực sản xuất ở nông thôn Trung Quốc đã được phân bổ theo nhu cầu thị trường.
4 – Từ năm 2002 đến nay là giai đoạn mới tính toán tổng thể phát triển thành thị và nông thôn, xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa. Tháng 11-2002, Đại hội XVI của Đảng đưa ra phương châm chiến lược tổng thể phát triển kinh tế – xã hội thành thị và nông thôn, đánh dấu nhận thức của Đảng đối với cải cách, phát triển nông thôn được nâng lên một tầm cao mới. Giai đoạn này, Đảng nhấn mạnh việc giải quyết tốt vấn đề “Tam nông” là một trong số những nhiệm vụ quan trọng nhất của toàn Đảng, đề ra và thực hiện phương châm công nghiệp nuôi nông nghiệp, thành thị hỗ trợ nông thôn thúc đẩy xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa. Từ năm 2004 đến 2008, Trung ương liên tục đưa ra 5 “văn kiện số 1”, đã áp dụng một loạt chính sách, giải pháp càng trực tiếp hơn, mạnh mẽ hơn, hiệu quả hơn nhằm thúc đẩy cải cách, phát triển nông thôn. Một là, thúc đẩy cải cách thuế nông nghiệp, năm 2004 đã xóa bỏ thuế đối với đặc sản nông nghiệp, năm 2006 đã xóa bỏ thuế nông nghiệp. Hai là, thúc đẩy cải cách tổng hợp nông thôn, bắt đầu từ năm 2006 triển khai công tác thí điểm cải cách tổng hợp nông thôn tập trung vào cải cách cơ quan xã, thị trấn, giáo dục nghĩa vụ ở nông thôn và thể chế quản lý tài chính huyện, xã. Ba là, đẩy mạnh giải quyết vấn đề phát sinh do nông dân vào thành phố làm thuê, tập trung giải quyết các vấn đề như việc làm, an sinh xã hội, nhà ở, giáo dục trẻ em, dịch vụ y tế khám chữa bệnh của nông dân, tạo môi trường tốt đẹp cho nông dân làm thuê vào thành phố làm việc. Bốn là, mở cửa đối ngoại sâu rộng trong lĩnh vực nông nghiệp, từng bước hình thành cục diện mở cửa đối ngoại nông nghiệp toàn diện, nhiều tầng nấc, nhiều lĩnh vực. Năm là, nâng cao hiệu quả thực hiện các sự nghiệp xã hội ở nông thôn, ngân sách hỗ trợ đối với nông nghiệp và nông thôn, xây dựng chế độ y tế hợp tác nông thôn kiểu mới và chế độ bảo đảm sinh hoạt tối thiểu cho nông thôn, miễn trừ toàn bộ học phí, tạp phí giai đoạn giáo dục nghĩa vụ ở nông thôn, xây dựng hệ thống dịch vụ văn hóa công cộng nông thôn, trình độ dịch vụ công cộng nông thôn…
II – Những thành tựu chủ yếu và kinh nghiệm quan trọng trong cải cách, phát triển nông thôn Trung Quốc 30 năm qua
Ba mươi năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, kinh tế nông thôn Trung Quốc đã có sự chuyển biến to lớn…
1 – Thể chế cơ chế ở nông thôn có sự thay đổi sâu sắc. Địa vị chủ thể của nông dân được xác lập và củng cố, sức sống phát triển nông thôn không ngừng tăng cường. Trung Quốc đã xác lập thể chế kinh doanh hai tầng lấy kinh doanh khoán đến hộ gia đình làm nền tảng, kết hợp giữa thống nhất và chia tách, hình thành thể chế kinh tế nông thôn thích hợp với tình hình đất nước và yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất nông thôn, bước đầu xây dựng cơ chế dân làng tự trị dưới sự lãnh đạo của tổ chức đảng ở tại thôn. Ngoài ra, hệ thống điều tiết vĩ mô nông nghiệp, hệ thống hỗ trợ bảo vệ và thể chế quản lý hành chính, hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến nông thôn thích ứng với thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa bước đầu được hình thành.
2 – Khả năng cung ứng nông sản có sự thay đổi sâu sắc.
… Từ năm 1978 đến 2007, sản lượng lương thực của Trung Quốc từ 305 triệu tấn tăng lên 502 triệu tấn, bình quân đầu người từ 318,7 kg tăng lên 381 kg; sản lượng thịt từ 8,563 triệu tấn tăng lên 68,657 triệu tấn, bình quân đầu người từ 9,1 kg tăng lên 52 kg; tổng sản lượng thủy sản từ 5,366 triệu tấn tăng lên 47,475 triệu tấn, bình quân đầu người từ 5,5 kg tăng lên 36 kg. Sản lượng lương thực, nguyên liệu dầu thực vật, rau, hoa quả, thịt, trứng gia cầm và thủy sản của Trung Quốc nhiều năm liền đứng đầu thế giới…
3 – Cơ cấu kinh tế nông thôn có sự thay đổi sâu sắc. Nông, lâm, ngư nghiệp và chăn nuôi phát triển toàn diện, xí nghiệp hương trấn lớn mạnh nhanh chóng, ngành công nghiệp, dịch vụ nông thôn ngày một phồn vinh. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp với ngành trồng trọt là chủ yếu chuyển sang nông, lâm, ngư nghiệp và chăn nuôi cùng phát triển. Cùng với cây lương thực phát triển ổn định, các loại cây trồng có hiệu quả kinh tế cao cũng phát triển vững chắc, tỷ trọng giá trị sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp và chăn nuôi từ 80:3,4:15:1,6 năm 1978 thành 52,3:3,9:33,1:10,8 năm 2006. Nhiều loại hình kinh doanh, ngành công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn được coi trọng và hỗ trợ, cơ cấu kinh tế nông thôn từ nông nghiệp làm chính chuyển thành nông nghiệp và các ngành phi nông nghiệp phát triển nhịp nhàng, giá trị sản xuất của xí nghiệp hương trấn trên toàn quốc từ 20,9 tỉ nhân dân tệ năm 1978 tăng lên 5.800 tỉ năm 2006. Hiện nay, toàn quốc có 226 triệu nông dân làm thuê hoặc kinh doanh, nông dân làm thuê trở thành bộ phận cấu thành quan trọng trong lao động nông nghiệp.
4 – Phát triển sự nghiệp công cộng nông thôn có sự thay đổi sâu sắc. Chế độ y tế hợp tác nông thôn kiểu mới không ngừng hoàn thiện, đã có 86% số huyện, thị, 730 triệu nông dân được hưởng lợi qua đó. Giáo dục nghĩa vụ ở nông thôn hoàn toàn được ngân sách bảo đảm, miễn toàn bộ học phí, các khoản đóng góp, cung cấp miễn phí toàn bộ sách giáo khoa cho 150 triệu học sinh trung học, tiểu học ở nông thôn, trợ cấp sinh hoạt cho học sinh sống xa nhà có hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Bước đầu xây dựng hệ thống bảo đảm sinh hoạt tối thiểu nông thôn, đời sống của 34,52 triệu nông dân khó khăn được bảo đảm, phủ sóng phát thanh truyền hình tới từng thôn… Xây dựng chính trị dân chủ và xây dựng văn minh tinh thần xã hội chủ nghĩa ở nông thôn không ngừng tăng cường, trình độ tư tưởng, đạo đức, trình độ học vấn, khoa học và sức khỏe của nông dân được nâng cao rõ rệt. Đến năm 2006, 95% số thôn của Trung Quốc đã có đường bộ, 98,7% có điện, 97,6% có điện thoại, 97,6% được phủ sóng truyền hình.
5 – Mức sống của nông dân có sự thay đổi sâu sắc. Từ năm 1978 đến năm 2007, thu nhập ròng bình quân đầu người của nông dân từ 134 nhân dân tệ tăng lên tới 4.140, hệ số Engel của cư dân nông thôn từ 67,71% giảm xuống còn 43,1%. Số người nghèo ở nông thôn giảm mạnh, từ 250 triệu năm 1978 giảm xuống còn 14,79 triệu người năm 2007.
Ba mươi năm cải cách, phát triển, Trung Quốc đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý báu về xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa:
Một là, cần phải kiên trì địa vị nền tảng của nông nghiệp. Không có hiện đại hóa nông nghiệp thì không có hiện đại hóa đất nước, không có nông thôn phồn vinh, ổn định thì không có cả nước phồn vinh, ổn định, không có nông dân khá giả toàn diện thì không có nhân dân cả nước khá giả toàn diện. Vì vậy, địa vị nền tảng của nông nghiệp chỉ có thể tăng cường, chứ không thể suy yếu, cần phải thường xuyên coi giải quyết vấn đề “Tam nông” là một trong những nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác nông thôn.
Hai là, cần phải bảo đảm thiết thực quyền lợi của nông dân. Đảng luôn coi bảo đảm quyền lợi của nông dân là xuất phát điểm và đích của việc đề ra chính sách nông thôn. Hội nghị toàn thể Trung ương 3 khóa XI của Đảng vạch rõ xuất phát điểm quan trọng hàng đầu của xác định chính sách nông nghiệp và chính sách kinh tế nông thôn là phát huy đầy đủ tính tích cực của hàng trăm triệu nông dân Trung Quốc. Về kinh tế, cần phải quan tâm đầy đủ tới lợi ích vật chất của nông dân. Về chính trị, bảo đảm thiết thực quyền lợi dân chủ của họ. Cải cách nông thôn sở dĩ giành được thành công to lớn, chính là đã kiên trì xuất phát điểm đúng đắn này…
Ba là, cần phải tôn trọng đầy đủ tinh thần đi đầu sáng tạo của nông dân. Kiên trì xuất phát từ thực tế, cho phép và khuyến khích nông dân mạnh dạn tìm tòi, tôn trọng một loạt sáng tạo từ phía nông dân, và kịp thời tổng kết những gì có tính quy luật từ trong sáng tạo thực tiễn của nông dân, không ngừng nâng lên thành chính sách, pháp luật, pháp quy của Đảng và Nhà nước…
Bốn là, cần phải kiên trì phương hướng kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa trong cải cách nông thôn. Các cải cách như chế độ kinh doanh cơ bản nông thôn, thể chế lưu thông thị trường nông sản, thể chế tài chính tiền tệ và thuế của nông thôn, thể chế điều tiết vĩ mô của Nhà nước đều tiến hành, bám sát mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa…
Năm là, cần phải tính toán tổng thể phát triển kinh tế – xã hội thành thị và nông thôn. Cần xuất phát từ toàn cục, kiên trì chiến lược tổng thể phát triển thành thị và nông thôn, vừa lấy cải cách và phát triển của nông thôn để thúc đẩy thành thị, vừa lấy cải cách và phát triển của thành thị để hỗ trợ nông thôn, khiến cho cải cách nông thôn và cải cách thành thị phối hợp lẫn nhau, thúc đẩy lẫn nhau, công nghiệp hóa, đô thị hóa, hiện đại hóa nông nghiệp được thúc đẩy nhịp nhàng.
Sáu là, cần phải xuất phát từ thực tế, thúc đẩy một cách tuần tự sự nghiệp cải cách và xây dựng nông thôn. Cải cách nông thôn cần áp dụng phương thức tuần tự từng bước nhằm thúc đẩy, thông qua làm thí điểm để tích lũy kinh nghiệm, từng bước hoàn thiện tư duy và giải pháp cải cách vừa duy trì tính liên tục và tính kế thừa của biện pháp cải cách, vừa không bỏ lỡ thời cơ khiến cho cải cách không ngừng phát triển và đi vào chiều sâu, vừa cần thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển, vừa cần duy trì xã hội nông thôn ổn định.
Bảy là, cần phải tăng cường và cải thiện công tác xây dựng Đảng ở nông thôn. Cần luôn coi tăng cường xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn là nhiệm vụ quan trọng trong công tác nông thôn, nắm chắc công tác xây dựng tổ chức cấp thôn lấy tổ chức đảng của thôn làm hạt nhân, xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở nông thôn kiên định niềm tin, chú trọng cống hiến, có bản lĩnh, coi trọng phẩm chất đạo đức, không ngừng nâng cao trình độ của đội ngũ đảng viên nông thôn, không ngừng củng cố nền tảng cầm quyền của Đảng ở nông thôn, hình thành sức mạnh tổng hợp lớn mạnh thúc đẩy nông thôn cải cách, phát triển…
III – Tích cực quán triệt thực hiện tinh thần Đại hội XVII và Hội nghị toàn thể Trung ương 3 khóa XVII Đảng Cộng sản Trung Quốc, cố gắng mở ra cục diện mới trong cải cách, phát triển nông thôn Trung Quốc
… Thứ nhất, ra sức thúc đẩy cải cách sáng tạo, tăng cường xây dựng chế độ ở nông thôn, tạo động lực lớn mạnh và bảo đảm về chế độ cho phát triển nhịp nhàng kinh tế – xã hội ở thành thị và nông thôn. Cần gấp rút tạo sự đột phá trong các khâu then chốt của cải cách thể chế nông thôn theo yêu cầu của tính toán tổng thể phát triển thành thị và nông thôn, mở cửa và làm năng động hơn nữa kinh tế nông thôn, tối ưu hóa môi trường bên ngoài của phát triển nông thôn, tăng cường sự bảo đảm về chế độ cho phát triển nông thôn, cần ổn định và hoàn thiện chế độ kinh doanh cơ bản nông thôn, kiên trì thể chế kinh doanh hai tầng, lấy kinh doanh khoán đến hộ gia đình làm nền tảng, kết hợp giữa thống nhất và chia tách, đồng thời thúc đẩy sáng tạo thể chế cơ chế kinh doanh nông nghiệp, đẩy nhanh chuyển biến phương thức kinh doanh nông nghiệp, thúc đẩy kinh doanh gia đình chuyển sang hướng áp dụng khoa học – kỹ thuật và phương pháp sản xuất tiên tiến, thúc đẩy kinh doanh thống nhất chuyển sang hệ thống dịch vụ kinh doanh đa dạng, nhiều tầng nấc, nhiều hình thức. Nâng đỡ hợp tác xã ngành nghề của nông dân đẩy nhanh phát triển thành tổ chức kinh doanh nông nghiệp hiện đại. Xây dựng, kiện toàn chế độ quản lý đất đai nông thôn, kiên trì chế độ bảo vệ đất canh tác và chế độ sử dụng đất tiết kiệm, hiệu quả nhất, tăng cường quản lý và dịch vụ chuyển dịch quyền kinh doanh thầu khoán đất đai, phát triển kinh doanh có quy mô thích hợp các loại hình thức, bảo vệ tối đa quyền lợi thầu khoán đất đai của nông dân. Hoàn thiện hơn nữa các chính sách như đầu tư cho nông nghiệp, trợ cấp nông nghiệp, bảo hộ giá nông sản, bù đắp môi trường sinh thái nông thôn, tăng mạnh đầu tư của Nhà nước đối với phát triển nông thôn, tăng từng năm với mức tương đối lớn trợ cấp cho nông dân trồng lương thực, duy trì mức giá nông sản hợp lý, hình thành cơ chế khuyến khích có lợi cho bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp. Thúc đẩy cải cách chế độ tài chính tiền tệ nông thôn, phát triển sự nghiệp bảo hiểm nông thôn, định hướng đầu tư càng nhiều tiền vốn tín dụng và tiền vốn xã hội vào nông thôn. Xây dựng, thúc đẩy chế độ nhất thể hóa phát triển kinh tế – xã hội thành thị và nông thôn, thúc đẩy sự phân bổ đồng đều các nguồn lực công cộng giữa thành thị và nông thôn, sự lưu động tự do của các yếu tố sản xuất giữa thành thị và nông thôn, thúc đẩy sự dung hòa trong phát triển kinh tế – xã hội thành thị và nông thôn, kiên trì con đường đô thị hóa đặc sắc Trung Quốc, thúc đẩy phát triển nhịp nhàng các thành phố lớn, vừa, nhỏ và các thị trấn nhỏ, hình thành cơ chế thúc đẩy lẫn nhau, cùng tiến trong đô thị hóa và xây dựng nông thôn mới. Kiện toàn chế độ thống nhất hữu cơ giữa quản lý dân chủ nông thôn, kiên trì sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân làm chủ, quản lý đất nước theo pháp luật, phát triển dân chủ cơ sở nông thôn, tăng cường xây dựng chính quyền cơ sở, bảo đảm cho nông dân được hưởng ngày càng nhiều quyền lợi dân chủ thiết thực hơn.
Thứ hai, thích ứng với quy luật phát triển nông nghiệp, tích cực phát triển nền nông nghiệp hiện đại, nâng cao năng lực tổng hợp sản xuất nông nghiệp. Kiên định con đường hiện đại hóa nông nghiệp đặc sắc Trung Quốc, ra sức phát triển nền nông nghiệp hiện đại, đẩy nhanh chuyển biến phương thức phát triển nông nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên và năng suất lao động của nông nghiệp, tăng cường năng lực chống chọi rủi ro, cạnh tranh quốc tế, phát triển bền vững của nông nghiệp. Coi trọng cao độ an ninh lương thực quốc gia, đặt phát triển sản xuất lương thực vào vị trí hàng đầu trong xây dựng nông nghiệp hiện đại, xác định rõ và thực hiện mục tiêu phát triển lương thực, không ngừng tăng cường năng lực sản xuất tổng hợp. Tiếp tục thúc đẩy điều chỉnh mang tính chiến lược cơ cấu nông nghiệp, kiên trì lấy nhu cầu thị trường làm phương hướng, lấy sáng tạo khoa học – kỹ thuật làm phương pháp, chất lượng hiệu quả làm mục tiêu, xây dựng hệ thống ngành nghề nông nghiệp hiện đại. Làm tốt công tác bố cục quy hoạch ngành nghề, hình thành dải ngành nghề ưu thế nổi trội và đặc sắc rõ nét, định hướng xây dựng các cơ sở gia công, lưu thông, tích trữ vận tải tập trung vào các vùng sản xuất thế mạnh. Phát triển kinh doanh ngành nghề hóa nông nghiệp, thúc đẩy nâng cấp cơ cấu ngành nghề chế biến nông sản. Tăng cường công tác chuẩn hóa nông nghiệp và an toàn chất lượng nông sản, giám sát kiểm soát nghiêm ngặt trong toàn bộ quá trình, ngăn chặn các sản phẩm không đạt tiêu chuẩn vào thị trường. Đẩy nhanh sáng tạo khoa học – kỹ thuật nông nghiệp, đẩy mạnh đầu tư khoa học – kỹ thuật nông nghiệp, cố gắng thực hiện sự đột phá lớn trong lĩnh vực then chốt và kỹ thuật hạt nhân, không ngừng thúc đẩy tổng hợp hóa kỹ thuật nông nghiệp, cơ giới hóa quá trình sản xuất, tin học hóa sản xuất kinh doanh. Đi sâu cải cách thể chế khoa học – kỹ thuật, đẩy nhanh xây dựng hệ thống sáng tạo khoa học – kỹ thuật nông nghiệp và hệ thống kỹ thuật ngành nghề nông nghiệp hiện đại… Làm tốt công tác xây dựng kết cấu hạ tầng thủy lợi, tăng cường xử lý các sông hồ lớn, tập trung xây dựng một loạt công trình thủy lợi trọng điểm lớn và vừa, hỗ trợ phát triển công nghiệp phục vụ cho nông nghiệp, đẩy nhanh cơ giới hóa nông nghiệp. Kiên trì lấy cơ quan dịch vụ công cộng làm chỗ dựa, lấy tổ chức kinh tế hợp tác làm nền tảng, lấy doanh nghiệp đầu tàu làm cốt cán, lấy các lực lượng xã hội khác làm bổ sung, kiên trì kết hợp giữa dịch vụ có tính công ích với dịch vụ có tính kinh doanh, sự nhịp nhàng giữa dịch vụ riêng rẽ và dịch vụ tổng hợp, xây dựng hệ thống dịch vụ xã hội hóa nông nghiệp kiểu mới. Phát triển nền nông nghiệp mô hình tiết kiệm, nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp sinh thái theo yêu cầu của xây dựng văn minh sinh thái, tăng cường bảo vệ môi trường sinh thái, thúc đẩy nông nghiệp phát triển bền vững. Mở cửa đối ngoại nông nghiệp một cách sâu rộng.
Thứ ba, đẩy nhanh phát triển sự nghiệp công cộng nông thôn, thúc đẩy xã hội nông thôn tiến bộ toàn diện, duy trì nông thôn hài hòa, ổn định. Cần mở rộng phạm vi bao trùm nông thôn của tài chính công, phát triển sự nghiệp công cộng nông thôn bảo đảm cho đông đảo nông dân được học tập, có thu nhập, có nơi chữa bệnh, người già được chăm sóc. Kiên trì trang bị lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc cho đảng viên nông thôn, giáo dục quần chúng nông dân, triển khai thiết thực công tác xây dựng hệ thống giá trị hạt nhân xã hội chủ nghĩa, kiên trì dùng văn hóa tiên tiến xã hội chủ nghĩa để chiếm lĩnh trận địa nông thôn, nâng cao trình độ tư tưởng, đạo đức của nông dân. Triển khai rộng rãi hoạt động xây dựng văn minh tinh thần có tính quần chúng. Xây dựng cơ chế bảo đảm đầu tư văn hóa nông thôn, nâng đỡ sáng tác, sản xuất sản phẩm văn hóa đề tài nông thôn, nhanh chóng hình thành hệ thống dịch vụ văn hóa công cộng nông thôn hoàn chỉnh, đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần ngày càng tăng của nông dân. Ra sức thực hiện tốt sự nghiệp giáo dục nông thôn, củng cố thành quả phổ cập giáo dục nghĩa vụ nông thôn, đẩy nhanh phổ cập giáo dục trung học nông thôn, kiện toàn mạng lưới giáo dục đào tạo nghề ở huyện lỵ, tăng cường đào tạo kỹ năng cho nông dân, đẩy nhanh phát triển một cách có trọng điểm dạy nghề trung cấp nông thôn và từng bước thực hiện miễn phí, bồi dưỡng người nông dân kiểu mới có văn hóa, hiểu biết kỹ thuật, biết kinh doanh… Kiên trì Chính phủ chủ đạo, huy động các nguồn lực y tế thành thị và nông thôn, xây dựng kiện toàn mạng lưới dịch vụ y tế khám chữa bệnh ba cấp ở nông thôn, cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh cơ bản an toàn, giá rẻ cho nông dân. Kiện toàn hệ thống an sinh xã hội nông thôn, xây dựng chế độ bảo hiểm xã hội, dưỡng lão nông thôn kiểu mới, hoàn thiện chế độ bảo đảm sinh hoạt tối thiểu ở nông thôn, thực hiện toàn diện chính sách 5 loại bảo hiểm ở nông thôn, hoàn thiện chế độ cứu trợ cho người dân bị thiên tai ở nông thôn, phát triển sự nghiệp phúc lợi và từ thiện xã hội lấy giúp đỡ người già yếu, trợ cấp người tàn tật, cứu tế trẻ mồ côi, cứu tế nghèo khó, cứu trợ thiên tai làm trọng điểm. Kiên trì phương châm xóa đói, giảm nghèo kiểu phát triển, tiếp tục đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo ở nông thôn, hoàn thiện chiến lược và hệ thống chính sách xóa đói, giảm nghèo quốc gia, thực hiện tiêu chuẩn xóa đói, giảm nghèo mới, thực hiện toàn diện chính sách xóa đói, giảm nghèo đối với những người thu nhập thấp ở nông thôn. Hoàn thiện thể chế cơ chế quản lý xã hội nông thôn, tăng cường xây dựng cụm dân cư nông thôn, kiện toàn thể chế quản lý ứng phó khẩn cấp ở nông thôn, nâng cao năng lực giải quyết khủng hoảng, duy trì xã hội nông thôn hài hòa, ổn định.
Thứ tư, tăng cường và cải thiện sự lãnh đạo của Đảng, không ngừng nâng cao trình độ Đảng lãnh đạo công tác nông thôn, tạo sự bảo đảm chính trị kiên cường cho thúc đẩy cải cách, phát triển nông thôn. Cần phải kiên trì lấy xây dựng năng lực cầm quyền và xây dựng tính tiên tiến của Đảng làm tuyến chính, lấy tinh thần cải cách sáng tạo để thúc đẩy toàn diện công tác xây dựng Đảng ở nông thôn, tăng cường sức sáng tạo, sức tập hợp, sức chiến đấu của tổ chức đảng các cấp. Hoàn thiện thể chế cơ chế Đảng lãnh đạo công tác nông thôn, tăng cường thể chế lãnh đạo và cơ chế thực hiện công tác nông thôn. Hoàn thiện hệ thống sát hạch đánh giá cán bộ thể hiện yêu cầu của quan điểm phát triển khoa học và quan niệm thành tích chính trị đúng đắn, coi sản xuất lương thực, nông dân tăng thu nhập, bảo vệ đất canh tác, xử lý môi trường, hài hòa, ổn định là những nội dung quan trọng trong sát hạch thành tích chính trị của ban lãnh đạo địa phương, nhất là cấp huyện (thị). Tăng cường xây dựng tổ chức cơ sở nông thôn, lấy xây dựng ban lãnh đạo làm trọng điểm, kiện toàn tổ chức đảng làm sự bảo đảm, hoạt động cùng sáng tạo của ba cấp làm vật chuyển tải, xây dựng tổ chức đảng thành hạt nhân lãnh đạo kiên cường thúc đẩy phát triển khoa học, dẫn dắt nông dân làm giàu, liên hệ mật thiết với quần chúng, giữ gìn nông thôn ổn định. Tăng cường xây dựng đội ngũ cán bộ và đội ngũ đảng viên ở cơ sở nông thôn…/.