18/11/2015
Nấm rơm thuộc loại nấm ưa nhiệt độ cao, nhiệt độ trên 280C mới thích hợp sinh trưởng phát triển của nấm rơm. Các địa phương có thể tùy theo nhiệt độ của mùa mà nuôi trồng. Vật liệu trồng nấm rơm có thể dùng rơm khô màu vàng kim, không biến chất và sâu bệnh. Cũng có thể dùng vỏ hạt bông, bông phế thải, có thể dùng bã mía, thân ngô, cây lạc, trộn với rơm theo tỷ lệ nhất định: Rơm 30 – 50%, vỏ hạt bông 68 – 48%, 1% tro, 0,1% CaCO3, 0,2% Ure, 0,4% cám. Phối chế nguyên liệu nên theo yêu cầu của từng địa phương. 1. Kỹ thuật nuôi trồng nấm rơm ngoài trời: – Chọn đất trồng nấm rơm: chọn nơi cao ráo, không tích nước, nhưng gần nguồn nước. Lúc trồng lớn có thể xây lều che bóng, trồng ít thì chọn trước sau vườn nhà, dưới giàn mướp, giàn nho; dưới tán cây, bảo đảm 3 phần sáng 7 phần tối. – Dọn sạch đất trồng: cuốc cỏ, xới đất, phơi ải 1 – 2 ngày, làm luống theo kiểu mai rùa, cao 5cm, rộng 1- 1,2m, dài 5,6m, cự ly các luống là 0,5 – 0,8m, giữa luống rắc bột vôi, nén chặt, hai bên xốp hơn. Xung quanh luống mở rãnh thoát nước. – Xử lý vật liệu nuôi trồng: Trước hết phơi rơm tươi mấy ngày, sau đó dùng gạch nén chặt, ngâm trong nước 12 giờ, cột thành bó xếp đống. Ngoài ra có thể ngâm trong nước vôi 2 – 3% trong 12 – 24 giờ, vớt ra rửa bằng nước trong, bỏ bớt nước để xây đống. Vỏ hạt bông được dùng sau khi đã lên men. – Bón phân và gieo giống: + Kiểm tra chất lượng giống trồng: giống trồng vật liệu nuôi có sợi nấm mọc khỏe, dày, phân bố đều, màu vàng nhạt, trong suốt, có đống bào tử vách dày nâu đỏ, sợi nấm mọc đầy bình (không có nấm tạp), công cụ bới giống nấm phải được khử trùng. + Chất đống, bón phân gieo giống: cuộn bó rơm đã xử lý (ngâm nước hoặc nước vôi) thành dạng con tôm, đưa đầu uốn ra ngoài, xếp chặt song song thành từng lớp, cứ mỗi lơp rắc một lớp bột vỏ hạt bông, cách mép 12 – 15cm rắc 1 lớp tro, mép ngoài tro rắc một lớp phân, vòng ngoài phân bỏ giống nấm có đường kính 2cm, mỗi cục cách nhau 6 – 10cm, như vậy mỗi lớp có rơm, vỏ hạt bông, phân và giống nấm, tầng trên cùng rắc một lớp giống nấm, trên giống nấm lại rắc một ít vỏ hạt bông. Đống rơm có thể cao 50 – 60cm, sau đó trên đống rơm phủ 1 lớp rơm hoặc tấm nilông để giữ ẩm, che mưa, trong đống rơm ở các vị trí khác nhau cắm nhiệt kế (sâu 15cm) hàng ngày kiểm tra nhiệt độ đống rơm) Đống rơm xây xong 3- 4 ngày, nhiệt độ trong đống rơm lên cao là hiện tượng bình thường, khi nhiệt độ lên vượt quá 400C, thì nên phun một ít nước và lật tấm nilông để thông gió, phân tán nhiệt, đề phòng sợi nấm bị chết. Thông qua kinh nghiệm nuôi trồng, những vỏ hạt bông đã xử lý lên men, nhiệt lên 400C, mỗi ngày mở tấm nilông 2 – 3 lần là bảo đảm nhiệt độ và độ ẩm vừa (sờ tay vào tay bị ướt, nhưng không nhỏ giọt), nhiệt độ sẽ giảm xuống 350C, nói chung sau khi gieo giống 7 – 10 ngày là có thể nhìn thấy gốc nấm dạng hạt gạo màu trắng. + Cách quản lý: khi xếp đống thường xếp theo dạng bậc thang, ngày thứ hai cần kiểm tra độ chặt của đống rơm. Nhất là mép đống rơm cần phải nén chặt, dinh dưỡng tiếp xúc nhau, có lợi cho sinh trưởng sợi nấm. – Khống chế nhiệt độ: Sau khi gieo nấm nhiệt độ sẽ lên cao nhưng không để cao quá 400C, không thấp hơn 280C, tốt nhất là 30 – 320C. nếu nhiệt độ cao trên 400C cần dỡ tấm nilông hoặc lớp phủ trên cùng, tiến hành quạt thông gió và phun một ít nước để giảm nhiệt độ, cũng có thể giữa đống rơm chọc một lỗ thông hơi. Nếu nhiệt độ quá thấp, sợi nấm sinh trưởng chậm, dễ bị nhiễm nấm tạp, sản lượng thấp. Cần đậy thêm cho kín để giữ nhiệt. – Khống chế độ ẩm: Nên kiểm tra mẫu vật liệu, giữ cho độ ấm đống rơm đạt 60 – 65%, thông thường sau khi xếp đống 1 tuần không cần tưới nước, về sau các buổi chiều lúc trời nắng tưới 1 lần, nếu trời râm mát ẩm thì không tưới, nếu đống rơm quá ẩm cần dỡ tấm che phủ và thông gió. Khi tưới nước cần chú ý tưới nhẹ, tưới ít và nhiều lần, tuyệt đối không tưới vào mầm nấm; phun vào không gian, nền và xung quanh tường, bảo đảm độ ẩm không khí 90 – 95%. – Thu hái: Sau khi gieo giống gặp điều kiện thuận lợi 10 – 15 ngày là mọc nấm. Khi chồi nấm mọc ở dạng quả trứng, giữa trứng hơi lõm là tiến hành hái. Khi hái dùng tay để sát đống rơm lay nhẹ, không động đến chồi nấm khác. Bình thường hái 3 – 4 đợt, cứ 100kg rơm và vỏ hạt bông có thể thu được 35 – 45kg nấm tươi.
2. Kỹ thuật nuôi trồng nấm rơm trong phòng: – Phòng nuôi nấm: Phòng nuôi nấm cần có các giá nấm, sạch sẽ, có ánh sáng. Phòng nuôi nấm phải giữ ẩm, giữ ấm, không khí lưu thông. – Chuẩn bị vật liệu: Cắt rơm thành từng đoạn dài 20 – 30cm, và cùng lượng vỏ hạt bông, ngâm vào 2 – 3% nước vôi trong 12 giờ, phối chế vật liệu như cách nuôi ngoài trời. Trộn đều và xếp đống, phía trên phủ tấm nilông, sau 3 – 4 ngày chất thành đống để lên men. Ba ngày sau đảo vật liệu 1 lần, giống như đảo vật liệu ngoài trời. Sau đó lại chất đống lên men. Khi vật liệu có màu hạt dẻ, mềm, dễ gãy, có mùi thơm của rơm, lượng nước 62 – 68%. Hậu lên men: Dựng một phòng lên men tạm thời dài 5,8m; rộng 2,8m; cao 1,6m; xung quanh vây bằng tre và tấm nilông, hai đầu có lỗ thoát nước, tầng dưới giá nấm cách mặt đất 25cm, xung quanh cách vách nilông 15cm. Sau khi trộn vật liệu tạm thời chất lên giá, xung quanh và giữa đống vật liệu chọc 5 lỗ (đến đáy), thông gió. Sau đó thông với xông hơi nóng, nhiệt độ buồng nấm là 600C, giữ khoảng 2 giờ và ngừng xông, nhiệt độ xuống dần đến 520C, giữ như vậy trong 8 – 12 giờ, sau đó sẽ lên men. – Quản lý giống gieo nấm: + Kiểm tra chất lượng giống trồng như ở ngoài trời, lượng gieo là 10%. + Khử trùng buồng nấm và giá nấm trong 2 ngày, khử trùng dụng cụ bới nấm giống. + Gieo giống nấm theo kiểu phân tầng, 1/5 gieo ở dưới, 2/5 gieo ở giữa và 2/5 gieo ở trên. Rải đều vào xung quanh là chính và một ít ở giữa. Tầng trên cùng rải một lớp vật liệu phủ kín giống nấm, làm phẳng, đậy tấm nilông giữ ẩm, giữ nhiệt. + Cũng có thể dùng tre đan thành rọ dài 0,5m; rộng 0,3m; cao 30cm; phân lớp rải 10% vật liệu và giống nấm. Nhưng 1/5 giống gieo rắc lên trên, phía trên cùng phủ giấy báo khử trùng, sau đó phủ tấm nilông giữ ẩm và nhiệt độ. Tăng cường thông gió nhưng không để gió thổi trực tiếp vào rọ nấm, độ ẩm không khí 90 – 95%, sau 2 – 3 ngày có thể thu hái nấm. – Thu hái và gia công: Cách thu hái thích hợp có thể hái tươi bán hoặc cung cấp cho nhà ăn, khách sạn, cũng có thể đóng họp, chế biến khô xuất khẩu.
B. Nhật (Theo GS. TS Trần Văn Mão – ThS. Trần Tuấn Kha)