“Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ”.
(Ca dao)
Mỗi vùng quê nào đó cũng có những bản sắc văn hóa riêng trong cộng đồng văn hóa dân tộc Việt Nam hàng ngàn năm. Xứ Nghệ cũng vậy và nơi đây không chỉ chỉ có “non xanh nước biếc” mà xứ Nghệ còn đẹp, thanh tú bởi những phong tục tập quán bản sắc lâu đời. Trong những nét văn hóa có bản sắc riêng ấy phải kể đến phong tục uống nước trà (chè) xanh.
Đặc biệt cây chè xanh xứ Nghệ
Chè xanh ở xứ Nghệ không phải loại chè trồng để hái đọt rồi sao tẩm thành trà, mà chè xanh trồng để hái cành. Nơi đây người dân trồng thành từng đồi. Những vùng chè xanh nổi tiếng phải kể đến chư chè Gay (Lĩnh Sơn), chè Anh Sơn, chè Thanh Lâm (Thanh Chương), chè Đô Lương.
Chè xanh được trồng ở nhiều nơi khắp cả nước nhưng chè xứ Nghệ vẫn được xem là chất lượng ngon nhất có lẽ do chúng được trồng ở một mảnh đất cằn sỏi đá, thời tiết khắc nghiệt. Mùa hè gió Lào rát bỏng, mùa đông giá lạnh thấu xương, khí hậu 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông luân phiên nên trong mỗi thân cây dường như đã hội tụ vị chát đắng đặc biệt của đất trời và mồ hôi những người dân lam lũ.
Đồi chè xanh ở Thanh Chương – Nghệ An
Bí mật cách nấu nước chè xanh ngon
Để có bát nước chè xanh thơm ngon, đậm đà thì phải chọn những cây chè mọc ở nơi có ánh mặt trời, không bị những tán cây lớn che khuất. Lá chè để nấu nước phải thật tươi, cành nhỏ, lá dày, không được non hoặc già quá và cây chè càng mọc ở trên đồi cao thì nước càng ngon. Ở các nơi khác người ta hái lá chè để nấu nước, còn xứ Nghệ thì để nguyên cả cành thế. Người ta chỉ bỏ bớt những cành to, những lá sâu, lá vàng.
Củi nấu cũng góp phần tạo nên chất lượng của ấm chè xanh. Nước chè ngon nhất là nấu bằng ấm đất, củi mít, lửa to cho sôi rồi thêm bát nước lạnh vào để nước chè được xanh lâu.
Nước để nấu chè xanh cũng rất quan trọng. Những giếng nước nấu chè xanh ngon có mạch trong veo ở trên vùng đất cao, xa ao hồ, ruộng đồng.
Cách chế biến chè cũng là cả một “nghệ thuật”. Chè đem về được rửa sạch, vò kỹ, cọng bẻ gãy và tước ra. Đun cho nước sôi rồi mới cho chè vào, sau đó tiếp tục đun cho nước sôi lại, lửa to cho sôi rồi thêm bát nước lạnh vào và nhắc xuống đem đi ủ. Cho bát nước lạnh vào mục đích là để chè ngon hơn, nóng lạnh giao hòa, nước chè xanh lâu hơn. Khi đun cũng lưu ý không được để sôi kỹ quá, nước sẽ có màu bầm tím và rất khó uống.
Bát nước chè xanh ngon là phải có màu xanh sóng sánh, vị thơm nhè nhẹ lan tỏa. Khi uống phải uống nóng, đầu tiên có vị chát sau đó có dư vị ngọt ngào đọng mãi nơi đầu lưỡi, nó như có men say, làm cho người uống sảng khoái, ngây ngất.
Hồn quê trong bát nước chè xanh
Uống nước chè xanh ở xứ Nghệ không ai uống một mình, mà là uống tập thể. Khi chè đã chín, người ta gọi mời nhau đến uống. Chủ nhà không cần đến từng nhà để mời mà đứng ngay trước sân gọi to lên mời nhau đến uống. Mấy phút sau cả xóm nhỏ tụ tập, ít ra cũng năm bảy người. Câu chuyện tâm tình quanh ấm nước. Chuyện trong làng ngoài xóm thăm hỏi nhau, làm cho mọi người gần gũi, tình làng nghĩa xóm gắn bó thân thiết. Hương vị chè xanh cứ thế tỏa thơm làm cho lòng người say đặm trong từng ánh mắt, làm cho vơi đi bao nỗi nhọc nhằn. Tục lệ “mời cả làng uống nác chè xanh” là một nét văn hóa có tự ngày xưa ở xứ Nghệ là như vậy.
Những ấm chè xanh ra đồng ruộng, những lúc ngơi tay bên cánh đồng các bà con nông dân nghỉ giữa buổi cày, buổi cấy, v.v.. Khi uống chè xanh, tất cả cùng dừng tay để uống, để lấy lại sức cho buổi làm việc.
Những ấm chè xanh trong gia đình, sau bữa cơm, các gia đình thường quây quần bên ấm chè nóng đặt trên chiếc chõng tre, chiếc bàn, chiếc phản. Hương chè xanh thoang thoảng phả ra làm cho không gian gia đình thêm ấm cúng, yên bình.
Không chỉ xuất hiện trên chiếc chõng tre mỗi nhà sau những bữa cơm thanh đạm, hay nơi đồng ruộng,.. ấm nước chè xanh còn là thứ nước chẳng thể thiếu trong những dịp lễ lạt, cưới xin. Ngồi kề bên nhau, rót cho nhau từng bát nước chè đặc sánh, thấy như vừa được san sẻ một chút gì đó thật giản dị, đơn sơ mà ấm áp, nồng nàn để nghĩa xóm, tình làng thêm kết đoàn, gắn bó.
Phong tục uống nước chè xanh như thế khó mà xác định có từ thời nào chỉ biết có từ lâu rồi, truyền từ đời này sang đời khác trở thành một nét văn hóa của con người xứ Nghệ.
Nước chè xanh mật mía
Ở xứ Nghệ, đi cùng với chè xanh có 2 món rất thông dụng đó là kẹo Cu Đơ và Mật Mía. Bản thân kẹo Cu Đơ cũng được làm từ mật mía. Những người dân nơi đây thường uống chè xanh ăn kẹo, hoặc pha mật mía vào nước chè uống để phục hồi sức khỏe sau những buổi làm việc ruộng đồng. Nước chè xanh pha với mật mía chữa được khá nhiều bệnh về phổi, tiêu hóa, thận, thần kinh. Uống nước chè xanh mật mía giúp chữa đau lưng, mỏi gối vì lao động mệt nhọc. Đang làm việc mệt mỏi chỉ cần uống vào một bát chè xanh mật mía sẽ thấy khoẻ người ngay. Sở dĩ thức uống này có sức mạnh như vậy bởi mật mía có rất nghiều công dụng. Nước này uống vào đẹp da, có sức khỏe tráng kiện, bền bỉ, bổ sung năng lượng tức thời.
Ai đi vô nơi đây xin dừng chân xứ Nghệ Ai đi ra nơi đây xin chân dừng xứ Nghệ Nghe câu hò ví dặm càng lắng lại càng sâu Như sông Lam chảy chậm đọng bao thuở vui sầu Ai ơi cà xứ Nghệ càng mặn lại càng giòn Nước chè xanh xứ Nghệ càng chát lại càng ngon Tình xứ Nghệ không mau nhưng bén mà sâu lắng
(Lời bài hát: Ai Vô Xứ Nghệ)
Phần sau đây là công thức sử dụng mật mía mà các bạn có thể dùng:
Chè xanh mật mía
Chè xanh mật mía pha chanh
Chè xanh pha chanh
Khi nước chè xanh cho thêm mật mía vào sẽ có vị mật ngọt và chút chát của chè xanh.
Khi nước chè xanh mật mía cho thêm chanh sẽ có vị ngọt thanh, rất ngon. Các bạn đừng bỏ qua công thức này nhé! Dưới đây là hình cách làm.
BẠN NÀO CÓ NHU CẦU MUA MẬT MÍA NGUYÊN CHẤT SẢN XUẤT TẠI NGHĨA ĐÀN XIN LIÊN HỆ CHÚNG TÔI NGAY ĐỂ ĐƯỢC PHỤC VỤ!
31 XUÂN THỦY, TP. VINH, NGHỆ AN
ĐT: 0983 853 394