1. Tên biện pháp “Một số biện pháp giảm tỉ lệ suy dinh dưỡng cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi”
2. Ngày biện pháp được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Tháng 9 năm 2020
3. Các thông tin cần bảo mật: Không có
4. Mô tả các biện pháp cũ thường làm:
Qua nhiều năm công tác tại trường mầm non tôi nhận thấy tỉ lệ suy dinh dưỡng của nhà trường tuy đã giảm xong vẫn còn khá cao. Hầu hết giáo viên còn coi trọng công tác giáo dục hơn là công tác chăm sóc nuôi dưỡng, Do đó chưa quan tâm đúng mức, kịp thời đến việc phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ.
Giáo viên chưa có kế hoạch chăm sóc trẻ suy dinh dưỡng, khi thấy trẻ bị suy dinh dưỡng, giáo viên thường tăng cường uống sữa cho trẻ vào buổi chiều có chế độ riêng cho những trẻ suy dinh dưỡng ở mức độ nặng trở lên…. Vv. Giáo viên chưa tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến trẻ suy dinh dưỡng và có kế hoạch chăm sóc phù hợp.
Công tác tuyên truyền phòng chống suy dinh dưỡng tại trường có hiệu quả nhưng chưa cao vì đa số phụ huynh chưa quan tâm. Phụ huynh còn chủ quan không coi đó là bệnh mà chỉ xem đó là tình trạng còi xương hay chậm lớn và do di truyền. Điều kiện để nâng cao chất lượng bữa ăn còn gặp nhiều khó khăn do điều kiện kinh tế của phụ huynh chưa đồng đều, giá cả thị trường luôn thay đổi ảnh hưởng đến giá lương thực thực phẩm để tổ chức bữa ăn cho trẻ phù hợp về chất, đảm bảo về lượng.
Bảng khảo sát trước khi thực hiện biện pháp: Số trẻ được cân đo là 40.
Cân nặng
Kết quả đầu năm
Tỷ lệ %
Trẻ cân nặng bình thường
35/40
87,5%
Trẻ suy dinh dưỡng vừa
3/40
7,5%
Trẻ suy dinh dưỡng nặng
2/40
5%
Chiều cao
Trẻ có chiều cao bt
34/40
85%
Trẻ thấp còi độ 1
6/40
15%
5. Sự cần thiết phải áp dụng biện pháp:
Như chúng ta đã biết, nếu trẻ khỏe mạnh thì sẽ tích cực tham gia vào các hoạt động vui chơi, học tập, lao động. Tham gia các hoạt động hàng ngày giúp trẻ phát triển được tính tò mò, ham hiểu biết, óc sáng tạo đó là điều kiện để phát triển toàn diện năm lĩnh vực giáo dục ở trẻ.
Đặc biệt, đối với trẻ 5-6 tuổi, trong giai đoạn này thì cơ thể cần nhiều năng lượng để học tập và vui chơi trong thời gian cả ở nhà và ở trường.Vì vậy các bữa ăn của trẻ dù có đầy đủ nhưng không hợp lý cũng sẽ là nguyên nhân dẫn đến suy dinh dưỡng ở trẻ.
Trẻ mầm non đang trong thời kỳ hình thành và phát triển cả về thể chất và trí tuệ. Do đó, chế độ dinh dưỡng thực sự rất cần thiết cho sự phát triển và hoàn thiện não bộ của trẻ. Ở độ tuổi này, nếu được quan tâm chăm sóc và giáo dục đúng mức, kịp thời, trẻ sẽ có một tiền đề tốt để phát triển trí tuệ, thể lực.
6. Mục đích của biện pháp:
Sớm phát hiện và phục hồi sức khỏe cho trẻ bị suy dinh dưỡng nhằm góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng trẻ ở trường mầm non Dĩnh Trì nói riêng và các trường mầm non trên thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang nói chung.
Tuyên truyền những kiến thức, những kinh nghiệm về chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ theo khoa học tới các bạn đồng nghiệp và các bậc phụ huynh học sinh một cách tổng hợp và dễ hiểu nhất góp phần hạ tỉ lệ suy dinh dưỡng trên địa bàn nói riêng và cả nước nói chung.
Giúp trẻ hiểu được tầm quan trọng của dinh dưỡng với sự phát triển của cơ thể mình từ đó trẻ tự ý thức được việc ăn uống đầy đủ các chất dinh dưỡng cho cơ thể khỏe mạnh. Giúp nâng cao kiến thức của bản thân về việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ.
7. Nội dung:
7.1. Thuyết minh biện pháp mới hoặc cải tiến
Tôi đã đưa ra một số biện pháp mới và phù hợp giúp giáo viên có thể áp dụng góp phần giảm tỉ lệ suy dinh dưởng cho trẻ, Cụ thể như sau:
Biện pháp 1: Theo dõi tình trạng sức khỏe của trẻ, phối kết hợp trong việc lên thực đơn cho trẻ.
Ngay từ đầu năm học, tôi đã thực hiện kế hoạch cân – đo cho trẻ. Thông qua việc chấm, theo dõi trên biểu đồ tăng trưởng từ đó biết được những cháu nào bị suy dinh dưỡng và lập danh sách để theo dõi. Tôi tiến hành trao đổi trực tiếp với phụ huynh về tình hình sức khỏe và chế độ sinh hoạt, thói quen ăn uống của trẻ ở gia đình cũng như những vấn đề của trẻ từ lúc sơ sinh đến khi đi học và tìm hiểu nguyên nhân vì sao trẻ lại bị suy dinh dưỡng.
Khi tìm hiểu tôi đã thu thập được các thông tin về các nguyên nhân dẫn đến trẻ bị suy dinh dưỡng như: Trẻ còn kén ăn, chưa ăn đầy đủ các nhóm dinh dưỡng, khả năng hấp thu các chất dinh dưỡng kém, trẻ bị sâu và đau răng nên ăn kém dẫn đến suy dinh dưỡng…vv.Từ đó tôi đề ra biện pháp chăm sóc cụ thể cho từng trẻ phù hợp với từng nguyên nhân để có kế hoạch giúp trẻ tăng cân.
Xuất phát từ kế hoạch giúp trẻ tăng cân thì việc phối kết hợp lên thực đơn cho trẻ hết sức cần thiết.
Cho trẻ ăn theo thực đơn nhằm chủ động trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch ăn uống trong thời gian trẻ ở trường, đáp ứng nhu cầu năng lượng, các chất dinh dưỡng trong khẩu phần, trên cơ sở sử dụng thực phẩm có chất lượng, giá thành phù hợp ở địa phương thay đổi cách chế biến thường xuyên để tạo ra món ăn đa dạng, phong phú, giúp trẻ ăn ngon miệng.
Khi xây dựng thực đơn cần phải dựa vào các nguyên tắc phải cân đối 3 chất chủ yếu là: Protein, lipit, gluxit.Việc lên thực đơn phải đúng với điều kiện trường và tuân thủ các nguyên tắc cơ bản và đảm bảo dinh dưỡng cần thiết cho trẻ.
Tôi thường trò chuyện với trẻ để biết các sở thích của các bé, nhằm tham mưu thay đổi thực đơn cho phù hợp, đặc biệt với trẻ suy dinh dưỡng và thấp còi.
Hàng ngày trẻ được ăn 2 bữa ở trường trong đó có 1 bữa chính và 1 bữa phụ với thực phẩm đảm bảo vệ sinh và an toàn. Sau đây là bảng thực đơn mà trường tôi đã và đang thực hiện.
THỰC ĐƠN MÙA THU
TUẦN CHẴN ( Tuần 2, tuần 4)
BỮA ĂN
THỨ HAI
THỨ BA
THỨ TƯ
THỨ NĂM
THỨ SÁU
Bữa trưa
Cơm tẻ, Thịt băm, trứng dán
Rau bắp cải, cà rốt xào thịt
Canh :Cải thìa nấu thịt
Cơm tẻ,
Thịt bò hầm khoai tây, cà rốt
Canh: rau ngót nấu thịt
Tráng miệng: Dưa hấu
Cơm tẻ
Ruốc cá
Bí xanh cà tốt xào thịt
Canh: cá rau cải
Cơm tẻ
Thịt gà om nấm hương
Bí đỏ xào thịt tỏi
Canh :
Xương gà bí đỏ hoặc khoai tây
Cơm tẻ
Thịt lợn xay, muối lạc
Canh: cua rau mồng tơi mướp
Bữa chiều
Bún xương thịt
Cháo dinh dưỡng
Bánh mỳ
Phở gà
Mỳ gạo nấu xương thịt
Tráng miệng
Ăn sữa chua
Uống sữa bột nuti
Uống sữa bột nuti
TUẦN LẺ (Tuần 1, tuần 3)
BỮA ĂN
THỨ HAI
THỨ BA
THỨ TƯ
THỨ NĂM
THỨ SÁU
Bữa trưa
Cơm tẻ, thịt đậu xốt cà chua
Rau bắp cải xào thịt
Canh :Rau cải nấu thịt
Cơm tẻ,
Thịt băm, trứng cút kho tầu
Canh: rau ngót nấu thịt
Tráng miệng: Chuối tiêu
Cơm tẻ, Tôm nõn biển rim thịt lợn nạc
Bí xanh cà rốt xào
Canh: rau cải thịt nạc
Cơm, thịt gà nấu ngũ sắc
Canh:
Xương bí đỏ Hoặc khoai tây
Cơm, Thịt lợn, chả cá rim gia vị
Bí đỏ xào tỏi
Canh: cua rau mồng tơi mướp
Bữa chiều
Bún xương thịt
Phở bò (Hoặc ngan)
Xôi đỗ hoặc (Thịt băm hành)
Cháo gà hầm
Mỳ gạo nấu xương thịt
Tráng miệng
Uống sữa Yakult
Uống sữa bột nuti
Uống sữa bột Nuti
Biện pháp 2. Tổ chức tốt bữa ăn cho trẻ, đảm bảo vệ sinh.
Để thực hiện tốt mười lời khuyên dinh dưỡng hợp lý, tôi đã thực hiện đúng theo chế độ đảm bảo vệ sinh, an toàn thực phẩm. Luôn kết hợp với nhà bếp lựa chọn thực phẩm tươi, sạch, rõ nguồn gốc để chế biến thức ăn cho trẻ. Khi đi lấy cơm phải đảm bảo: Xoong đựng thức ăn phải có nắp đậy, thức ăn phải được nấu chín, đảm bảo vệ sinh. Hiện tại trường, lớp tôi đang tổ chức cho trẻ ăn theo hình thức “Bữa ăn gia đình”.
Thông qua bữa ăn gia đình trẻ học được những kỹ năng sống cần thiết như sự chủ động chọn món ăn phù hợp với sở thích, nề nếp văn hóa trong bàn ăn qua việc sử dụng thành thạo các dụng cụ ăn uống hay tính tự lập tự phục vụ bản thân. Quan trọng là trẻ hiểu được để có bữa cơm ngon nhờ công sức của nhà trường và các cô nhà bếp. Từ đó biết trân trọng các món ăn ngon bổ dưỡng, trẻ ăn hết suất của mình không để dư thừa đồ ăn.
Tôi thường khích lệ trẻ để trẻ có cảm giác ăn ngon miệng. Trẻ nào biểu hiện mệt mỏi tôi động viên trẻ và bón cho trẻ ăn chứ không để trẻ bỏ bữa. Khích lệ để trẻ ăn được hết xuất của mình, nếu trẻ có hiện tượng bất thường như nóng sốt báo ngay cho phụ huynh. Linh động trong bữa ăn của trẻ, nắm bắt kịp thời những trẻ ăn khỏe, ăn yếu để giúp trẻ ăn hết xuất.
Ví dụ: Tôi cho những trẻ ăn chậm, ăn kém ngồi chung với những trẻ ăn giỏi, ăn nhanh để khuyến khích thi đua xem bạn nào hết trước.
Với những trẻ bị suy dinh dưỡng thường rất lười ăn, nên khi đơm cơm tôi thường khuyên trẻ đơm ít, chia thành nhiều phần nhỏ để trẻ cảm thấy hứng thú khi ăn. Với những trẻ chưa chú ý đến ăn và biếng ăn, tôi động viên khuyến khích trẻ bằng nhiều hình thức. Tôi giới thiệu các món ăn hấp dẫn và cách giới thiệu cũng thay đổi để tạo sự mới mẻ của món ăn, làm tâm lý trẻ háo hức chờ đợi món ăn. Không nên quát mắng, la hét trẻ khi ăn. Trẻ ăn trong tư thế ép buộc, sợ hãi bữa ăn, ăn không ngon miệng từ đó không giúp trẻ hấp thu thức ăn mặc dù trẻ vẫn ăn hết suất.
Cách làm của tôi như trên trẻ nào cũng ăn rất nhanh, thích là mình ăn được nhiều bát, trẻ nào cũng ăn hết suất.
Biện pháp 3: Lồng ghép giáo dục dinh dưỡng vào các hoạt động trong ngày của trẻ.
Thông qua các hoạt động trong ngày giúp trẻ ghi nhớ kiến thức một cách sâu sắc hơn. Vì vậy tôi tận dụng cơ hội lồng ghép giáo dục dinh dưỡng vào các giờ hoạt động, giúp trẻ lĩnh hội được kiến thức về dinh dưỡng. Đó là cơ hội tốt nhất để giúp trẻ hiểu biết về dinh dưỡng và kích thích trẻ ăn uống đủ chất, hứng thú trong các bữa ăn.
a. Trò chuyện với trẻ
Để giúp cho trẻ hiểu biết về dinh dưỡng (ăn uống) tôi không những giáo dục dạy cho trẻ trong giờ ăn, giờ học mà còn trò chuyện với trẻ mọi lúc, mọi nơi (trong giờ đón trẻ, giờ chơi, giờ về hay lúc ngồi chơi với trẻ)
Ví dụ: Trong giờ trò chuyện sáng về chủ đề mới, cô hỏi muốn cho cơ thể phát triển và lớn nhanh thì chúng mình phải làm gì? Ăn các món gì để có đủ chất dinh dưỡng?…
Trong lúc trò chuyện tôi kết hợp giáo dục trẻ không ăn nhiều đồ ngọt như bánh keo, bim bim để đến bữa ăn sẽ có cảm giác ngon miệng hơn.
b. Trong các hoạt động học.
Thông qua các giờ học, tôi cũng thường xuyên trò chuyện, dạy trẻ về các chất dinh dưỡng nuôi cơ thế, các món ăn bổ dưỡng, phù hợp với vùng, miền. Qua hoạt động khám phá ở chủ đề Bản thân “Bé cần gì để lớn lên và khỏe mạnh” trẻ biết được bé hàng ngày cần phải ăn uống để sống, để phát triển, để làm việc, hoạt động và vui chơi, hiểu biết tốt về dinh dưỡng để trẻ biết ăn uống hợp vệ sinh, ăn đầy đủ chất, cân đối các chất dinh dưỡng nằm trong 4 nhóm thực phẩm: Thực phẩm giàu chất béo, thực phẩm giàu chất bột đường, thực phẩm giàu chất đạm, thực phẩm giàu chất vitamin, cần phải ăn nhiều loại thức ăn, ăn hết suất, không kén chọn thức ăn.
Ví dụ: Ví dụ: Tổ chức chơi “Chọn thực phẩm cho bé”, cô đưa ra các thực phẩm cần thiết, trẻ lên chọn và nối cho đúng.
c. Dạo chơi ngoài trời, trải nghiệm thực tế
Trẻ mầm non rất hứng thú khi được khám phá môi trường sống xung quanh. Tôi luôn lồng ghép nội dung giáo dục vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ mọi lúc, mọi nơi.
Trong giờ dạo chơi ngoài trời, trẻ được cô dẫn đi thăm quan khu vực bếp ăn của nhà trường, xem các bác cấp dưỡng vệ chế biến thực phẩm, trò chuyện cùng bác cấp dưỡng, và được ngửi mùi thơm của món ăn mình sắp ăn, các thực phẩm nấu món ăn hôm nay mình sẽ được ăn. Hay cô cho trẻ quan sát “Vườn rau của bé”, trẻ được thảo luận cùng cô về một số loại rau, chất dinh dưỡng có trong rau, rau cung cấp cho bé chất gì? sau khi được quan sát thảo luận trẻ còn được trải nghiệm: chăm sóc vườn rau, nhổ cỏ, bắt sâu cho rau.Thông qua những chuyến thăm quan thực tế như vậy, khi vào các bữa ăn trẻ rất vui vẻ, hứng thú, những cháu thường ngày ít ăn rau lại thấy thích ăn rau.
d. Thông qua hoạt động vui chơi
Khi tổ chức cho trẻ chơi trò chơi đóng vai “Chủ đề nấu ăn”, trẻ biết sử dụng đồ dùng phục vụ nấu ăn, giúp trẻ thỏa sức sáng tạo, tưởng tượng thiết kế các món ăn mà bé thích, nghĩ ra chế biến món gì cho đủ chất, biết tạo ra một số món ăn đơn giản, biết ngồi vào bàn ăn và ăn hết suất ăn, động viên bạn cùng ăn hết suất…
Biện pháp 4: Phối kết hợp, tuyên truyền với phụ huynh trong việc chăm sóc bữa ăn cho trẻ hàng ngày
Hàng ngày tôi gặp gỡ trao đổi với phụ huynh về tình hình sức khỏe của trẻ và đặc điểm của lứa tuổi (5-6 tuổi), những thói quen sinh hoạt và ăn uống của trẻ, cách phòng bệnh cho trẻ, cách giữ gìn vệ sinh và chế biến thực phẩm cho trẻ…để cùng thống nhất cách chăm sóc trẻ, tôi cũng trao đổi với phụ huynh một số kinh nghiệm nuôi con theo khoa học, đảm bảo đủ dinh dưỡng và cân đối các loại thực phẩm…
Ví dụ: Giáo viên và phụ huynh trao đổi về một số thói quen ăn uống hàng ngày của trẻ, khẩu vị trẻ thích ăn.
Bên cạnh đó tôi xây dựng góc tuyên truyền ở ngay của lớp thuận lợi cho phụ huynh dễ quan sát. Qua bảng tuyên truyền phụ huynh cập nhật những thông tin của trẻ từ đó có thêm những hiểu biết về nhu cầu dinh dưỡng. Qua đó phụ huynh chú trọng đến việc thay đổi các món ăn cho con mình.
Hàng ngày tôi luôn quan sát tình trạng sức khỏe của trẻ để thông báo cho phụ huynh biết, cháu tăng cân tốt hay có hiện tượng biếng ăn. Ngoài ra, tôi cũng thường xuyên vận động phụ huynh cố gắng cho không ăn, mang quà vặt đến lớp. Vì những trẻ thường xuyên ăn quà hoặc đồ ngọt thường thiếu cảm giác đói, không thèm ăn. Hơn nữa cơ quan tiêu hóa cứ ở trạng thái làm việc, không nghỉ ngơi, dễ xuất hiện tổn thương đường tiêu hóa rối loạn.
Theo thực tế ở lớp đầu năm học các cháu thường xuyên mang quà bánh đến lớp: Bánh ngọt, bim bim, kẹo…dẫn tới tình trạng đến giờ ăn cơm, trẻ ăn rất ít, phần lớn là ngậm cơm, ăn chậm, thậm chí có trẻ bỏ xuất..Nắm được tình hình này tôi đã trao đổi với phụ huynh phối hợp cùng cô giáo dạy trẻ: Bước đầu tôi yêu cầu phụ huynh không cho con mang quà vào lớp, tôi tìm nhiều hình thức khác nhau để dỗ trẻ: Trò chuyện cùng trẻ, chơi cùng trẻ như một người bạn…
Qua những buổi trao đổi với phụ huynh như vậy, tôi thấy phụ huynh đã quan tâm đến con hơn. Sau một thời gian tôi thấy trẻ có sự chuyển biến rõ rệt: Trẻ ăn giỏi hơn, ăn được nhiều thức ăn hơn.
Biện pháp 5: Tổ chức cho trẻ tham gia luyện tập thể thao, vận động.
Bên cạnh việc chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ đầy đủ tôi nhận thấy rằng việc tập luyện thể dục thể thao cũng như phát triển vận động cũng rất quan trọng. Hàng ngày, trẻ đến lớp được tham gia các hoạt động trong ngày. Tuy nhiên, tôi luôn chú trọng đến các hoạt động thuộc lĩnh vực phát triển vận động bằng cách tổ chức cho trẻ được tham gia vào các trò chơi như: Trò chơi vận động, trò chơi dân gian…).Ngoài ra khi cho trẻ tập thể dục buổi sáng tôi thường xuyên trò chuyện để giúp trẻ biết được khi tắm ánh sáng mặt trời rất tốt cho sức khỏe, giúp cho da hấp thụ mặt trời và tạo thành Vitamin D giúp chống bệnh còi xương.
Ở các buổi hoạt động ngoài trời cô cho trẻ chơi với các đồ chơi ngoài trời, các đồ chơi của phát triển vận động…Tôi luôn chú trọng đến việc cho trẻ rèn luyện thể chất.Trẻ được vận động nhiều cũng sẽ kích thích hệ tiêu hóa phát triển tốt, đặc biệt tôi chú ý hơn những trẻ thấp còi và suy dinh dưỡng.
Biện pháp 6: Thực hiện nghiêm túc các biện pháp phòng chống dịch bệnh cho trẻ.
Nhằm giảm tỉ lệ suy dinh dưỡng cho trẻ thì biện pháp quan trọng không thể thiếu được là phòng chống dịch bệnh. Hàng ngày tôi luôn vệ sinh sạch sẽ đồ dùng cho trẻ ăn và uống, thực hiện nghiêm túc việc vệ sinh trước và trong khi ăn như : Rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh, đồ dùng phải khử trùng qua nước sôi, trong khi cho trẻ ăn có khăn ẩm và đĩa đựng thức ăn. Mỗi tuần luộc khăn mặt 1 lần và thường xuyên rửa ca cốc cho trẻ uống nước.
Phối hợp với nhân viên y tế nhà trường, cán bộ y tế xã tổ chức cho 100% trẻ được khám sức khỏe định kỳ (2 lần/năm) nhằm phát hiện sớm tình trạng sức khỏe của trẻ để có biện pháp kịp thời phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ.
Đảm bảo chăm sóc trẻ hàng ngày, đặc biệt là trong thời tiết giao mùa nhằm phòng chống bệnh dịch theo mùa như: Sởi, robenla, thủy đậu…
Tạo môi trường xanh, sạch, đẹp trong và ngoài lớp học
Tổ chức hoạt động lao động tại lớp vào các buổi chiều thứ năm hàng tuần. Cô và trẻ cùng tham gia lau chùi toàn bộ các giá góc đồ chơi và sắp xếp gọn gàng.
Trẻ nào có biểu hiện ho, sốt, tiêu chảy hoặc khác thường tôi phải báo ngay với phụ huynh trẻ để đưa trẻ đi khám và điều trị kịp thời.
Để góp phần hình thành ở trẻ thói quen bảo vệ sức khỏe và để giúp cơ thể khỏe mạnh thì không phải là một việc làm dễ mà khi thực hiện này giáo viên phải có lòng quyết tâm và kiên trì cao.
* Kết quả khi thực hiện biện pháp.
Qua quá trình thực hiện những biện pháp nhằm cải thiện tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ, tôi đã thu được một số kết quả như sau:
Nội dung khảo sát
Kết quả chưa áp dụng biện pháp
Tỷ lệ%
Kết quả sau khi áp dụng biện pháp
Tỷ lệ%
Đánh giá
Cân nặng
Trẻ cân nặng bình thường
35/40
87,5%
39/40
97,5%
Tăng 10%
Trẻ suy dinh dưỡng vừa
3/40
7,5%
1/40
2,5%
Giảm 5%
Trẻ suy dinh dưỡng nặng
2/40
5%
0/40
0%
Giảm 5%
Chiều cao
Trẻ có chiều cao bình thường
34/40
85%
39/40
97,5%
Tăng 12,5%
Trẻ thấp còi độ1
6/40
15%
1/40
2,5%
Giảm 12,5%
Do làm tốt công tác phòng chống dịch bệnh tốt cho nên trẻ không bị mắc những bệnh theo mùa như hàng năm.
Các cháu có thể lực tốt, ăn ngủ theo nề nếp và đặc biệt là không có cháu nào bị sút cân. Trẻ đến lớp đều đặn, khỏe mạnh tích cực tham gia trong các hoạt động, không có biểu hiện mệt mỏi cho dù thời gian hoạt động kéo dài
Phụ huynh rất hài lòng về con em của mình, nhiệt tình ủng hộ, chú ý đến chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng của trẻ hơn, đặc biệt tin tưởng vào sự chăm sóc nuôi dưỡng của giáo viên, yên tâm khi gửi con đến lớp.
7.2. Thuyết minh về phạm vi áp dụng biện pháp
Phạm vi áp dụng biện pháp: Áp dụng cho trẻ 5- 6 tuổi A4 tại trường mầm non Dĩnh Trì. Qua một thời gian áp dụng các biện pháp tôi đã gặt hái được rất nhiều kết quả mang nhiều ý nghĩa to lớn
Từ kết quả đạt được tôi mạnh dạn trao đổi với đồng nghiệp và áp dụng sang các khối lớp tại trường vào đầu học kì 2 năm học 2020-2021 thì các lớp đều đạt hiệu quả khá cao. Qua trao đổi với đồng nghiệp và các đồng chí cán bộ quản lí thì biện pháp của tôi có thể áp dụng rộng rãi ở các trường Mầm Non trên toàn thành phố.
7.3. Thuyết minh về lợi ích kinh tế, xã hội của biện pháp:
Khi áp dụng biện pháp này giúp giảm tỉ lệ suy dinh dưỡng cho trẻ đồng thời phụ huynh học sinh không phải tốn kém nguồn kinh phí để bổ xung dinh dưỡng cho con em mình. Trẻ hứng thú ăn sẽ tiết kiệm được khoản tiền mua quà vặt mà phụ huynh phải bỏ ra hằng ngày .Việc nghiên cứu biện pháp này đã giúp trẻ hình thành và phát triển thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ, hình thành nên những yếu tố đầu tiên của nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay biện pháp “Một số biện pháp giảm tỉ lệ suy dinh dưỡng cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.” đã và đang được xây dựng và thực hiện và vận dụng rộng trong toàn trường cũng như các trường trong thành phố.
* Cam kết: Tôi cam đoan những điều khai trên đây là đúng sự thật và không sao chép hoặc vi phạm bản quyền.
Xác nhận của cơ quan, đơn vị
Hoàng Thị Hà
Tác giả biện pháp
Hà Thị Hiền