Phương pháp xét nghiệm và chẩn đoán suy dinh dưỡng
Xét nghiệm
Đo lượng albumin huyết thanh là xét nghiệm thường được sử dụng nhất. Giảm albumin và các protein khác (ví dụ, prealbumin [transthyretin], transferrin, protein gắn kết retinol) có thể chỉ ra việc thiếu protein hoặc thiếu protein – năng lượng (PEU). Khi thiếu dinh dưỡng tiến triển, albumin giảm chậm; prealbumin, transferrin, và protein gắn kết retinol giảm nhanh.
Đo lượng albumin không tốn kém và dự đoán tỉ lệ mắc bệnh và tử vong tốt hơn so với đo các protein khác. Tổng số tế bào lymphocyte, thường giảm do thiếu dinh dưỡng tiến triển, có thể được xác định. Thiếu dinh dưỡng gây ra sự giảm đáng kể các tế bào lympho CD4+ T, vì thế việc đếm tế bào này không có ích đối với bệnh nhân AIDS.
Test da sử dụng các kháng nguyên có thể phát hiện suy miễn dịch qua trung gian qua tế bào trong PEU và trong một số rối loạn khác của thiếu dinh dưỡng.
Các xét nghiệm khác, như đo mức vitamin và khoáng chất, được sử dụng có chọn lọc để chẩn đoán những thiếu hụt đặc trưng.
Đánh giá
Các công cụ đánh giá sau đây có thể giúp ích:
Đánh giá tổng thể chủ quan (SGA) sử dụng thông tin từ tiền sử bệnh nhân (ví dụ, mất cân, thay đổi trong thức ăn đưa vào, các triệu chứng tiêu hóa), các kết quả khám lâm sàng (ví dụ, mất cơ, mỡ dưới da, phù, cổ chướng) và đánh giá của bác sĩ lâm sàng về tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân.
Đánh giá Dinh dưỡng rút gọn (MNA) đã được xác nhận và được sử dụng rộng rãi, đặc biệt đối với những bệnh nhân cao tuổi.
Bảng câu hỏi đánh giá dinh dưỡng rút gọn (SNAQ), một phương pháp đơn giản đã được phê chuẩn để dự báo mất cân trong tương lai, có thể sử dụng.
Chỉ số khối cơ thể (BMI = trọng lượng [kg]/chiều cao [m]2) điều chỉnh trọng lượng cho chiều cao. Nếu trọng lượng < 80% được dự đoán cho chiều cao bệnh nhân hoặc nếu BMI 18, nên nghi ngờ thiếu dinh dưỡng. Mặc dù những phát hiện này rất hữu ích trong chẩn đoán thiếu dinh dưỡng và độ nhạy chấp nhận được, nhưng thiếu tính đặc hiệu.
Vùng cơ giữa cánh tay ước tính khối nạc cơ thể. Vùng này được suy ra từ độ dày nếp gấp da cơ tam đầu (TSF) và chu vi giữa cánh tay. Cả hai đều được đo tại cùng một vị trí, với cánh tay phải của bệnh nhân ở một vị trí thả lỏng. Chu vi giữa cánh tay trung bình khoảng 34,1 cm đối với nam giới và 31,9 cm đối với nữ giới.
Phân loại
Phân loại theo tiêu chuẩn lâm sàng là cách phân loại khá kinh điển, gồm các thể thiếu dinh dưỡng nặng sau:
Suy dinh dưỡng thể teo đét (Marasmus): Đó là thể thiếu dinh dưỡng rất nặng, do chế độ ăn thiếu cả năng lượng lẫn protein. Suy dinh dưỡng thể teo đét (Marasmus) có thể xảy ra ngay trong năm đầu tiên, điều này khác với suy dinh dưỡng nặng thể phù (Kwashiorkor)-chủ yếu xảy ra ở nhóm 1-3 tuổi.
Suy dinh dưỡng thể phù (Kwashiorkor): Ít gặp hơn so với thể Marasmus. Bệnh thường gặp ở trẻ trên 1 tuổi, nhiều nhất là giai đoạn từ 1-3 tuổi. Hiếm gặp ở người lớn, nhưng vẫn có thể gặp khi xảy ra nạn đói nặng nề, nhất là đối với phụ nữ.
Thể trung gian (Marasmic-Kwashiorkor), thể này thường gặp hơn nhiều so với hai thể trên với mức độ bệnh nhẹ hơn.
Phân loại suy dinh dưỡng trên cộng đồng dựa trên cân nặng, chiều cao của trẻ và so sánh với quần thể chuẩn của Tổ chức Y tế thế giới năm 2006, người ta chia SDD thành 3 thể:
Suy dinh dưỡng thể nhẹ cân: Cân nặng thấp hơn so với mức tiêu chuẩn của trẻ cùng tuổi và giới (sử dụng điểm ngưỡng cân nặng theo tuổi dưới -2SD).
Suy dinh dưỡng thể thấp còi: Là giảm mức độ tăng trưởng của cơ thể, biểu hiện của SDD mạn tính, có thể bắt đầu sớm từ SDD bào thai do mẹ bị thiếu dinh dưỡng. Được xác định khi chiều cao thấp hơn với mức tiêu chuẩn của trẻ cùng tuổi và giới (dưới -2SD).
Suy dinh dưỡng thể gầy còm: Là hiện tượng cơ và mỡ cơ thể bị teo đi, được coi là SDD cấp tính vì thường biểu hiện trong thời gian ngắn. Được xác định khi cân nặng theo chiều cao dưới -2SD.
Phương pháp điều trị suy dinh dưỡng hiệu quả
Thể nhẹ cân và thể vừa không biến chứng
Điều trị tại nhà:
Chế độ ăn tăng năng lượng, bổ sung vitamin và muối khoáng.
Cho trẻ tắm nắng và vận động vừa sức.
Thể vừa có biến chứng và thể nặng
Điều trị tại bệnh viện theo phác đồ của WHO:
Đánh giá và điều trị rối loạn nước và điện giải.
Chẩn đoán và điều trị nhiễm trùng và kí sinh trùng vùng dịch tễ SR: Phòng chloroquin.
Vitamin liều cao.
Điều trị thiếu máu.
Uống KCl, acid folic, đa sinh tố.
Dinh dưỡng tăng cường.
Tìm và điều trị biến chứng.