Việt Nam là một nước nông nghiệp, hầu hết tất cả các vùng địa phương, số dân tham gia sản xuất nông nghiệp chiếm từ 70 đến 80%, trong đó lao động nữ là lực lượng lao động chính. Trong những năm qua, được sự quan tâm của Ðảng và Nhà nước, cùng với sự nỗ lực của ngành y tế, các chương trình y tế quốc gia đã dần dần đi vào cuộc sống, bước đầu đã thu được những kết quả hết sức đáng khích lệ, cũng như nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh cho nhân dân. Tuy nhiên, cho đến nay ở nước ta vẫn chưa có một cuộc điều tra, đánh giá một cách đầy đủ về thực trạng sức khỏe của người lao động trong nông nghiệp. Trong công tác chăm sóc sức khỏe người lao động còn gặp một số khó khăn như: công tác an toàn vệ sinh trong lao động nông nghiệp (LÐNN) chưa được chú trọng, chưa có các văn bản quy định về chăm sóc sức khỏe cho người LÐNN như bảo hiểm y tế và khám sức khỏe hằng năm. Các chế độ, chính sách dành cho người lao động nói chung chưa áp dụng được cho lao động nữ trong nông nghiệp. Dịch vụ y tế công cộng cung cấp chăm sóc sức khỏe cho người lao động nông nghiệp nhìn chung chưa đầy đủ. Các thông tin về tác hại sức khỏe trong sản xuất nông nghiệp chưa được cung cấp trực tiếp cho người lao động.
Ðể định hướng chiến lược cho việc chăm sóc sức khỏe nhân dân, góp phần bảo đảm duy trì lực lượng LÐNN hùng hậu, đáp ứng được nhiệm vụ CNH, HÐH đất nước trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo. Bộ Y tế đã tiến hành khảo nghiệm và xây dựng “Mô hình chăm sóc sức khỏe, cải thiện điều kiện lao động cho lao động nông nghiệp”, được triển khai từ năm 2000. Chương trình được xây dựng và triển khai có sự phối hợp của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và Tổ chức Lao động quốc tế, trên cơ sở áp dụng các phương pháp có chọn lọc, phù hợp điều kiện thực tế tại Việt Nam. Mô hình được tiến hành tại các tỉnh: Thái Bình, Hà Tây, Nam Ðịnh, Khánh Hòa, Kiên Giang, Tiền Giang, Long An, Ðác Lắc, Yên Bái, Nghệ An và Thừa Thiên – Huế. Trong mô hình chăm sóc sức khỏe, cải thiện điều kiện lao động cho nông nghiệp, cần được thiết lập cơ chế phối hợp liên ngành, đặc biệt là các tổ chức phát triển mạnh và hoạt động có hiệu quả ở nông thôn. Trong đó, Ban chăm sóc sức khỏe ban đầu, thực hiện chức năng tương tự như chủ doanh nghiệp. Các Hội, các tổ chức Chính trị – Xã hội và đoàn thể trong nông thôn như Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Hội Phụ nữ, Ðoàn thanh niên, Chi hội Bảo vệ thực vật và Trạm Y tế xã tạo thành bộ máy phối hợp triển khai các hoạt động về bảo hộ lao động và chăm sóc sức khỏe nhân dân. Mô hình đã được triển khai theo các bước như sau:
Bước một, thành lập nhóm làm việc bao gồm cán bộ y tế huyện, xã làm điểm, đại diện của chính quyền địa phương, cán bộ khuyến nông, đại diện các ban, ngành, đoàn thể và các trưởng thôn/bản tham gia.
Bước hai, điều tra sơ bộ tình hình sản xuất nông nghiệp và nhu cầu cải thiện điều kiện lao động, như tìm hiểu tình hình an toàn lao động, vệ sinh lao động và sức khỏe của người LÐ.
Bước ba, xác định mục tiêu và ưu tiên, ở đây đối tượng chính là nữ giới, trong đó có an toàn lao động như an toàn máy móc, an toàn thuốc bảo vệ thực vật, các công trình vệ sinh, phòng các bệnh phổ biến, tuyên truyền và được chia thành các cấp như: cấp quốc gia là biên soạn tài liệu và tổ chức truyền đạt các kiến thức, dịch vụ về an toàn vệ sinh lao động (ATVSLÐ), thể chế hóa các văn bản pháp quy của Nhà nước; cấp tỉnh cung cấp kiến thức về ATVSLÐ cho người LÐNN, quản lý nguy cơ, bệnh tật, sức khỏe người LÐNN, tuyên truyền các chương trình y tế liên quan đến người LÐNN và đưa ra các giải pháp cải thiện cho phù hợp với từng địa phương; cấp huyện tổ chức thực hiện khám sức khỏe cho người LÐNN, đánh giá tình hình sức khỏe, bệnh tật, tuyên truyền giáo dục sức khỏe; cấp xã phối hợp tổ chức tập huấn nâng cao kiến thức cho người lao động và ATVSLÐ, từng bước cải thiện điều kiện lao động, điều kiện vệ sinh môi trường, tổ chức dịch vụ CSSK cho người lao động, trong đó ưu tiên cho lao động.
Bước bốn, xây dựng nội dung và chỉ tiêu cụ thể cho một xã và hộ gia đình. Ðối với xã, thôn, xóm có kế hoạch ATVSLÐ trong sản xuất nông nghiệp, tăng cường hoạt động của Ban thông tin tuyên truyền của xã nhằm nâng cao nhận thức của người dân cũng như các phong trào sạch nhà, sạch ngõ xóm và dịch vụ CSSK.
Bước năm, xây dựng kế hoạch chi tiết của xã trên cơ sở các thông tin thu thập được. Nhóm làm việc tuyến xã chọn ra các nhu cầu của xã và xây dựng kế hoạch hành động theo những nội dung, tiêu chí đã đề ra.
Bước sáu, tổ chức thực hiện kế hoạch và giám sát, báo cáo định kỳ thu thập các số liệu được báo cáo từ các hộ gia đình, sau 3 tháng hoặc 6 tháng sơ kết đánh giá kết quả và triển khai các vấn đề khác.
Bước bảy, đánh giá chương trình, kiểm tra và chấm điểm các xã điểm từ 3 đến 6 tháng, thông qua kết quả từ gia đình, tổ chức hội thi giữa các xã điểm.
Qua quá trình triển khai và thực hiện tại 8 tỉnh trên cho thấy một số kết quả như: Công việc đồng áng chủ yếu là phụ nữ chiếm từ 70 đến 80%. 100% số lao động nữ phải làm việc từ 10 đến 13 giờ/ngày, kể cả ngày ốm, 75% số lao động nữ không được khám sức khỏe trong năm. Số phụ nữ bị bệnh chiếm 65% trong tổng số người bị bệnh năm 1999. Tỷ lệ nữ bị tai nạn lao động chiếm 15%, tỷ lệ lao động nữ tiếp xúc trực tiếp với hóa chất bảo vệ thực vật khá cao (Khánh Hòa 72,16%, Thái Bình là 85%…). Tỷ lệ lao động nữ không sử dụng trang bị bảo hộ lao động khi tiếp xúc trực tiếp với hóa chất bảo vệ thực vật chiếm 34,83%, trong đó, số lao động nữ sử dụng chỉ một loại trang thiết bị bảo hộ chiếm 20,5%, số không được hướng dẫn sử dụng trang thiết bị bảo hộ lao động là 42,8%. 100% số lao động nữ khi khám bệnh tật, tai nạn muốn được khám tại trạm y tế và bệnh viện tỉnh, tuy nhiên có đến 55,6% số lao động nữ không mua bảo hiểm y tế, 50% lao động nữ có nguyện vọng được mua bảo hiểm y tế, 100% có nguyện vọng được khám bệnh miễn phí. 100% số lao động đề nghị cần có các chế độ chính sách về y tế cho người lao động nữ trong sản xuất nông nghiệp. 90% lao động nữ đề nghị được tuyên truyền chăm sóc sức khỏe bằng các phương tiện như: kế hoạch hóa gia đình, tiêm chủng mở rộng, chăm sóc phụ nữ mang thai từ 1 đến 3 lần/năm. Nhóm làm việc đã biên soạn tài liệu đào tạo về các phương pháp cải thiện điều kiện lao động và chăm sóc sức khỏe cho LÐNN như cung cấp kiến thức nâng cao sức khỏe, nhận biết các yếu tố nguy cơ nghề nghiệp, các biện pháp phòng, chống bệnh nghề nghiệp, cấp cứu ban đầu và giáo dục lối sống lành mạnh trong LÐNN. Trong ba năm thực hiện dự án, đã tổ chức được 30 lớp tập huấn, đào tạo hơn 2.500 lao động nữ trong nông nghiệp về các biện pháp cải thiện điều kiện LÐNN và kiến thức về y tế lao động; tổ chức 200 lượt cán bộ y tế và cán bộ liên ngành về chăm sóc và cải thiện điều kiện LÐNN; đã phát hành tài liệu thông tin tuyên truyền với số lượng 2.300 tờ rơi cho các tỉnh trọng điểm. Các tài liệu thông tin tuyên truyền này được giao cho các địa phương thực hiện nhằm phản ánh và phục vụ người lao động tại địa phương, làm tài liệu tuyên truyền. Năm 2002 có ba tỉnh tham gia hoạt động giám sát cải thiện điều kiện lao động tại xã điểm là Nam Ðịnh, Ðác Lắc, Tiền Giang.
Kết quả thực hiện mô hình chăm sóc sức khỏe cho người lao động nông nghiệp từ năm 2000 cho thấy, qua bốn năm thực hiện, các địa phương đã triển khai tốt các hoạt động về tập huấn, giám sát môi trường lao động, giám sát sức khỏe người lao động, hướng dẫn và giám sát các nội dung cải thiện điều kiện lao động, điều kiện sống của nông dân. Kỹ năng chuyên môn của các cán bộ trong nhóm làm việc về y tế lao động trong nông nghiệp được nâng lên một cách rõ rệt. Nhận thức của người lao động về chăm sóc sức khỏe tại các xã điểm cũng được cải thiện một cách đáng kể. Ðiều đó chứng tỏ rằng, việc áp dụng mô hình chăm sóc sức khỏe cho người lao động là hướng đi đúng và cần được nhân rộng trên toàn quốc.
VƯƠNG TRUNG TUYẾN