Những năm tới đây hứa hẹn sự bùng nổ của thị trường tiêu dùng Việt Nam với 33 triệu người thuộc tầng lớp trung lưu và khá giả vào năm 2020, tương đương với ⅓ dân số Việt Nam (theo Boston Consutlting Group (BCG). Thêm vào đó, thu nhập của bộ phận này dự báo sẽ tăng từ 6,000 USD đến ít nhất là 15,000 USD vào năm 2035, và tiếp tục gấp đôi – 30,000 USD vào năm 2050 (theo PWC)
Bạn có biết 20.5% ngân sách chi tiêu hàng tháng của hộ gia đình Việt Nam là dành cho ăn uống? Với tỷ trọng lớn nhất đó, thị trường thực phẩm và đồ uống không cồn được dự báo tăng trưởng 11.6% (giai đoạn 2018-2021) đạt con số 40 tỷ USD vào năm 2021 (Business Monitor International Ltd). So sánh với các ngành khác, con số 11.6% này xấp xỉ tốc độ tăng trường ngành đồ uống có cồn và thuốc lá (11.7%), và cao hơn ngành sữa (9%) mỗi năm đến 2020.
Trong khuôn khổ bài viết này, TrungThanh.Net sẽ đi sâu phân tích 1 mảng đầy sôi động, thay đổi nhanh chóng và không kém phần hứa hẹn trong thị trường lớn F&B (Food & Beverage): ngành hàng ăn uống bên ngoài (eating out of home) tại Việt Nam.
Người Việt Nam chi bao nhiêu tiền cho nhà hàng?
Ăn uống bên ngoài đang trở thành một phần thiết yếu trong cuộc sống hiện đại do nhu cầu giao tiếp, gặp gỡ tăng mạnh. Theo báo cáo từ Decision Lab, chỉ tính riêng trong quý II năm 2016 lượng khách (không tính trẻ em) đến nhà hàng tại 3 thành phố chính (HCM, Hà Nội, Đà Nẵng) đạt 340 triệu người, tương đương với doanh thu 1.1 tỉ đô la/quý. Như vậy, có thể ước tính trong năm 2016 doanh số ngành hàng ăn uống bên ngoài rơi vào khoảng 4.4 tỷ đô la/năm (tính riêng 3 thành phố lớn), một con số đáng kể khi so sánh với 22 tỷ đô la giá trị ngành hàng thực phẩm và đồ uống không cồn trên cả nước (năm 2016).
Mức chi của người tiêu dùng Việt Nam cho hạng mụcăn uống bên ngoài tùy thuộc vào nơi họ sống. Theo thống kê của Decision Lab, số tiền trung bình chi cho 1 lần ăn hàng của 1 người tiêu dùng tại ba thành phố lớn lần lượt là:
- Hà Nội: 80,327 VND
- Sài Gòn: 69,599 VND
- Đà Nẵng: 65,526 VND
Ngoài ra, các lựa chọn địa điểm khác nhau cũng dẫn đến các mức ngân sách khác biệt rõ rệt. Tham khảo con số trung bình sau (tính trên 1 lần ăn/uống trên 1 người)
- Nhà hàng lịch sự, dịch vụ trọn vẹn (Thai Express, Al Fresco, Gogi, ManWah,…): 265,000 VND
- Khách sạn (trung bình 3 sao): 216,000 VND
- Quán đồ uống cồn (bia hơi Thu Hằng…) : 193,000 VND
- Quán ăn trung bình (Vị Quảng, bánh cuốn Gia An, bánh tráng Hoàng Bèo…): 84,000 VND
- Quán phục vụ đồ ăn nhanh (KFC, Lotteria, Fresh Garden…): 72,000 VND
- Cửa hàng tiện lợi (Circle K…): 50,000 VND
- Căng tin: 40,000 VND
- Hàng quán vỉa hè (chè, nem chua rán, kem…): 35,000 VND
Ngoài ra, một báo cáo khác chỉ ra rằng người trẻ tại Việt Nam có xu hướng chi khoảng 80 – 120 USD/tháng (tương đương 1.8-2.7 triệu VNĐ/tháng) cho các món quà vặt như xôi, ngô chiên, trà sữa và cà phê tại khu vực sống (Rama, 2018)
Các loại hình ăn/ uống khác nhau chiếm tỷ trọng ra sao?
Đi sâu vào các phân khúc trong thị trường tiêu thụ thực phẩm bên ngoài để thấy rõ sự khác biệt. Hai phân khúc chiếm tỷ trọng lớn nhất cả về lượng khách và doanh thu là nhà hàng phục vụ trọn vẹn (full-service) và quán phục vụ nhanh (quick-service). Sự khác biệt giữa 2 loại này ở chỗ: Loại đầu tiên ứng với các mô hình kinh doanh nhà hàng điển hình, nơi khách hàng được phục vụ tại bàn (có thể là sang trọng hay trung bình), còn loại thứ 2 đề nghị khách tự phục vụ, chủ yếu là quán bánh ngọt, quán cà phê hoặc đồ ăn nhanh. Tỷ trọng 2 phần khúc này xấp xỉ nhau và tổng hai phân khúc đóng góp 72% doanh thu thực phẩm tiêu thụ bên ngoài.
28% còn lại thuộc về hàng quán vỉa hè (11%), cửa hàng tiện lợi, căng tin, đồ uống có cồn và ăn/uống tại khách sạn. Mặc dù Việt Nam nổi tiếng với ẩm thực vỉa hè, đây là phân khúc chỉ chiếm 11% tổng lượng tiêu thụ thực phẩm bên ngoài trên cả nước.
Chân dung thực khách điển hình của ngành hàng ăn uống bên ngoài
Ăn ngoài phổ biến ở nam giới hơn nữ giới – người ưu tiên những bữa ăn sum họp tại nhà, tiết kiệm và đảm bảo vệ sinh. Trong đó, nhóm tuổi 15-35 chiếm đa số khách ăn ngoài, và ¾ lượt ghé thăm hàng quán rơi vào nhóm phân khúc thu nhập C, D.
Tổng kết lại, Decision Lab chỉ ra rằng chân dung khách hàng chính của thị trường này là nam giới, độ tuổi từ 15 – 35 với thu nhập từ 7,500,000 đến 30,000,000 VND/tháng.
Mặc dù ý thức rất cao về an toàn thực phẩm so với các nước khác trong khu vực, khi ăn uống bên ngoài người tiêu dùng Việt Nam lại không thực sự bận tâm đến yếu tố này lắm với chỉ 5% chọn địa điểm tốt cho sức khỏe. Còn lại, 50% đánh giá cao sự tiện nghi, tính thực dụng (như đồ ăn có ngon không, đúng vị không, ăn có thỏa mãn không…), 45% quan tâm cách phục vụ và các ưu đãi, ưu tiên được hưởng (được chào hỏi khi bước vào, được phục vụ tận bàn, thay đĩa…).
Lý giải điều này theo mình, tâm lý người Việt Nam cho rằng đi ăn hàng là hưởng thụ, tụ tập, chiêu đãi, “chẳng mấy khi”… nên không phải thời điểm bận tâm đến yếu tố lành mạnh. Thêm vào đó, họ cũng không quá trông chờ vào yếu tố này ở quán ăn bên ngoài.