Trong các bệnh ngoại khoa, dinh dưỡng đóng một vai trò rất quan trọng, vì bệnh nhân ngoại khoa phải đủ sức vượt qua được cuộc phẫu thuật do mất máu, dịch thể, stress… Để phẫu thuật đạt kết quả tốt, bệnh nhân cần được nuôi dưỡng tốt cả trước và sau phẫu thuật. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Ở những bệnh nhân nuôi dưỡng kém trước phẫu thuật có tỉ lệ nhiễm khuẩn tăng, tỉ lệ tử vong tăng và gặp nhiều biến chứng hơn so với những bệnh nhân đuợc nuôi dưỡng tốt.
1. Nguyên tắc của dinh dưỡng
Dinh dưỡng trong các bệnh ngoại khoa có thể chia ra 3 thời kỳ: Trước phẫu thuật, chuẩn bị phẫu thuật và sau phẫu thuật.
– Trước phẫu thuật:
+ Trường hợp phẫu thuật cấp cứu, dinh dưỡng chỉ đặt ra sau phẫu thuật. Trường hợp phẫu thuật chương trình cần chuẩn bị về tinh thần, thuốc, dinh dưỡng cả trước phẫu thuật, chuẩn bị phẫu thuật và sau phẫu thuật.
+ Trước phẫu thuật, dinh dưỡng đúng cách giúp làm giảm nhiễm trùng, tăng khả năng lành vết thương, hạn chế sụt cân, cải thiện chức năng ruột. Cần tăng protein vì sau phẫu thuật thường làm cho cơ thể mất nhiều protein do chảy máu, vết thương, do viêm… và nhiều năng lượng. Bệnh nhân có các bệnh lý đặc biệt, cần có chế độ dinh dưỡng đặc trưng cho bệnh đó theo chỉ dẫn của bác sỹ.
– Trong thời gian chuẩn bị phẫu thuật: đảm bảo giảm bớt cặn bã trong ruột, giảm vi trùng đường ruột nhất là khi phẫu thuật đường tiêu hoá, tránh nôn và chịu đựng được thuốc mê.
– Sau khi phẫu thuật: Thời kỳ này đòi hỏi có chế độ ăn đặc biệt phù hợp với bệnh nhân, giúp bệnh nhân phục hồi nhanh chóng.
2. Dinh dưỡng thời kỳ sau phẫu thuật:
2.1. Các giai đoạn sau phẫu thuật
Sau phẫu thuật thường gây ra một số rối loạn cho bệnh nhân, thông thường qua 3 giai đoạn:
– Giai đoạn đầu: Là thời gian 1 – 2 ngày ngay sau khi mổ. Đây là giai đoạn tăng nhiệt độ cơ thể, liệt cơ do ảnh hưởng của thuốc gây mê dẫn đến liệt ruột, chướng hơi, bệnh nhân mệt mỏi. Chuyển hoá mất nhiều nitơ, cân bằng nitơ âm tính, mất nhiều kali, vì thế cũng làm tăng thêm sự liệt ruột, chướng hơi.
– Giai đoạn giữa: Từ ngày thứ 3 – 5 sau mổ. Thông thường đến giai đoạn này nhu động ruột đã trở lại, bệnh nhân đã có thể trung tiện. Bệnh nhân tỉnh táo hơn, có cảm giác đói nhưng vẫn chán ăn. Bài tiết nitơ giảm đi, cân bằng nitơ trở lại bình thường. Bài tiết kali cũng giảm.
– Giai đoạn hồi phục: Đến giai đoạn này bệnh nhân đại tiểu tiện bình thường, kali máu dần trở lại bình thường. Vết mổ đã liền. Bệnh nhân biết đói, có thể ăn tăng để phục hồi dinh dưỡng nhanh.
2.2. Chế độ dinh dưỡng
– Giai đoạn đầu: Giai đoạn này bệnh nhân chưa ăn được. Chủ yếu bù nước và điện giải, cung cấp glucid đảm bảo đủ lượng calo cần thiết cho nuôi dưỡng cơ thể, làm giảm giáng hoá protein. Có thể truyền dịch đường tĩnh mạch. Cho uống rất ít, nếu bệnh nhân bị chưóng bụng thì không nên cho uống. Còn những bệnh nhân mổ ngoài hệ tiêu hoá cho uống một ít một ( 50 ml cách nhau 1 giờ ) nước đường, nước luộc rau, nước quả.
– Giai đoạn giữa:
+ Cho ăn tăng dần và giảm dần truyền tĩnh mạch.
+ Khẩu phần tăng dần năng lượng và protein. Bắt đầu từ 500 Kcal và 30 gam protein, sau đó cứ 1 – 2 ngày tăng thêm 250 – 500 Kcal cho đến khi đạt 2000 Kcal/ ngày.
+ Cho ăn sữa. Nên dùng dưới dạng sữa pha nước cháo. Nên dùng sữa bột đã loại bơ, dùng sữa đậu nành. Cho ăn làm nhiều bữa ( 4 – 6 bữa ). Vì bệnh nhân còn đang chán ăn, do vậy cần động viên bệnh nhân ăn
+ Dùng các loại thức ăn có nhiều vitamin B, C, PP như nước cam, chanh ….
+ Ăn thức ăn mềm hạn chế thức ăn có xơ.
– Giai đoạn hồi phục: Giai đoạn này vết mổ đã liền, bệnh nhân đã đỡ. Vì vậy chế độ ăn cung cấp đầy đủ calo và protein để tăng nhanh thể trọng và vết thương mau lành. Đây là chế độ ăn nhiều protein và calo. Protein có thể tới 120 – 150g/ ngày và năng lượng có thể tới 2500 kcal – 3000 kcal/ ngày. Khẩu phần này phải được chia thành nhiều bữa trong ngày (5-6 bữa/ ngày hoặc hơn) Dùng nhiều sữa, trứng, thịt, cá, đậu đỗ để cung cấp chất đạm và các loại hoa quả để tăng vitamin C và vitamin nhóm B.
Cần lưu ý rằng việc nuôi dưỡng bằng đường truyền tĩnh mạch lúc đầu là rất cần thiết. Song phải sớm nuôi dưỡng bệnh nhân bằng đường tiêu hoá. Điều này vừa có tác dụng nuôi dưỡng bệnh nhân sinh lý hơn, an toàn hơn, kinh tế hơn vừa có tác dụng kích hoạt cho hệ thống tiêu hoá sớm trở lại bình thường. Dùng chế độ ăn qua ống thông nếu ăn bằng miệng không đủ nhu cầu, sau đó dần cho bệnh nhân ăn bằng đường miệng. Cho ăn nhiều bữa trong ngày, cho ăn tăng dần lượng protein và calo, không cho ăn quá nhiều một lúc để tránh ỉa chảy.
Tổ T3G